Truyện Biển Đỏ Việt Nam _ Phần I

Tựa
Nguyễn Quang

Truyện Biển Đỏ Việt Nam, ghi lại cuộc hành trình của một người tù đi tìm lại những quyền cơ bản của người dân Việt dưới chế độ Cộng sản. Biển Đỏ nói lên cuộc hành trình của một dân tộc như dân Do Thái thuở xưa có Moise dẫn đường, còn nay dân tộc Việt Nam chẳng những không có cái que nào đưa đường mà nếu có đó chỉ là thứ học thuyết lỗi thời, khiến người dân Việt rơi vào cảnh lầm than khôn cùng, cả nước là một nhà tù…Trong sự bạo tàn mà mỗi sự khởi đầu tiến đến các quyền cơ bản thường đều là kết thúc: Cái chết luôn sẵn sàng ụp tới với những nhà đấu tranh cho nhân quyền cũng như những ai muốn tìm lại quyền sống cho chính mình cùng tha nhân vốn sinh ra làm người khả dĩ có được. Nó không phải từ một thế giới xa lạ, một thiên đường huyền bí, nhưng hiện hữu tại thế với thân phận con người. Nó bị tước đi vì lòng tham, vì đố kỵ, tỵ hiềm…
Cuộc hành trình của những nhà đấu tranh cho nhân quyền tưởng chừng khởi đi trong hy vọng sẽ tốt hơn giữa Nhà nước với các công dân, giữa con người với con người. Thế nhưng hầu hết Họ đều rơi tõm vào vực sâu mà cả dân tộc với mỗi gia đình dưới chế độ bạo tàn Cộng sản đều có người thân ở tù, các nhà đấu tranh cho nhân quyền cũng vừa là nhân chứng nơi đang diễn ra thứ Địa Ngục Có Thật, Địa Ngục Vô Gián… Thiện Nam tên nhân vật chính trong tác phẩm, ngay cả lời nói cuối cùng trước toà Cộng sản cũng đánh đổi bằng những lời nói tha thiết đòi hỏi nhân quyền… Từ thực tế đời tù tác giả trải qua bao trại giam khắc nghiệt của thứ địa ngục trần thế này, tất cả được ghi lại như một nhân chứng của sự thật với những suy tư thần học và triết học, nhất là các tôn giáo tại Việt Nam.

***

Những nẻo đường đến với Biển Đỏ Việt Nam.

Câu chuyện triết học –The story of philosophy, của Ông Bà Will Durant khi giới thiệu vế Emmanuel Kant có viết: muốn trở thành triết gia phải là một Kant tử. Với một nhà văn cũng vậy, không phải thấy gì rồi vội viết ngay, song phải quan sát kiểm nghiệm để từ những hiểu biết thường nghiệm đến những giá trị phổ quát mới viết ra cho người đọc.
Biển Đỏ có khó đọc nhưng rất thú vị, vì không chỉ đơn thuần là những sự kiện được ghi chép lại như chuyện kể về ‘con người ăn cỏ, uống nước mương rãnh’, nằm trong nhà kỷ luật ‘vừa ăn vừa đi cầu trong một cái bát…’, nhai hết chăn màn và nhai hoài thấy ngọt. Nhưng quả là hình ảnh của một chế độ bạo tàn hiện lên bên sau những ngôn từ đó. Không phải những gì nhà văn viết để cho chúng ta xem, nhưng chính những gì được mời gọi chúng ta cùng phán đoán, quyết định hành trình, dấn thân và hy vọng. Từ địa ngục để thấy lại thiên đường đã mất, đó là hạnh phúc gia đình, những giá trị của bao chân lý cổ xưa, tiện nghi của nền văn minh hiện đại… mà bỗng chốc trong cơn nổi loạn đã phá tan mọi thứ và nhân loại sẽ còn sai lầm và nhầm lẫn nữa trong cái giả của thứ phê bình lý trí thuần tuý dẫn đến hệ lụy hiểu lầm nên sử dụng nhầm trên bình diện lý trí thực hành. Chủ nghĩa Mác là học thuyết phê phán sự vong thân của tư bản, nhưng dẫn đến bao nguỵ tín, tha hoá… mà nhân loại trong đó có Việt Nam lãnh hậu quả.
Mở đầu tác phẩm với chương một ‘Về đâu’, nếu đọc thoáng qua chỉ là hình ảnh nhơ nhớp mất vệ sinh trong nhà kỷ luật, nhưng đi sâu hơn đó là một đoạn văn viết lại Sách Sáng Thế Ký từ Thiên Chúa dựng nên Trời và Đất trong bảy ngày đêm và ngày nay có sự miêu tả việc tái tạo tuần lễ đầu tiên dưới bàn tay của quỷ Satan.
Vốn văn ‘tải đạo’ nghĩa là mang theo sứ mệnh gồm những chân lý truyền thống -old verities, hầu mở đường cho nhân loại cùng đi về phía trước, nên đòi hỏi người viết phải có một tri thức nhất định, nếu không muốn nói theo Kant đó là một sự kiểm nghiệm để đạt đến tri thức tiên thiên –connaissance apriori, nếu không chúng ta chỉ viết về những chiếc đũa gãy trong hiện tượng khúc xạ nhưng thật sự không có cái que nào bị cong như mắt thường quan sát. Và cả sự thưởng ngoạn của độc giả sẽ như nước chảy bè trôi, một thái độ dễ dãi với cả người cầm bút và tha nhân.
Các chương ‘Thế Gian Như Thị’ hay ‘Mẹ Không Cần Vàng’ nói lên tính thể của con người thể hiện trong cuộc sống nơi bước đường cùng với những nếp gấp, ngả nghiêng của các hữu thể tại thế mà mỗi cá nhân trong điều kiện bình thường sẽ không nghĩ rằng tôi hiện hữu và sẽ hành xử như vây: một vị trung tá trong trại tù đòi phải chia cơm bằng cân tiểu ly mới công bình bên cạnh nhiều con mắt dõi theo có hơn kém nhau hạt nào.
Chương sáu đầy các tiên tri giả ‘Ta Là Kẻ Cứu Người’ nếu chúng ta có dịp tìm hiểu Kinh Thánh qua sách Khải Huyền sẽ thấy đây là một dấu chỉ để cảnh cáo hãy cùng nhau đi trên con đường công chính.
Chương ‘Người Tiều Phu’ đặc sắc về sự ẩn dụ của lòng yêu nước với sự bạo phỉnh, dối trá đưa con người sa lưới vào cái bẫy yêu nước đến cái chết đau thương cho bao gia đình của cái gọi ‘con đường giải phóng các dân tộc’ với chủ nghĩa Mác Lê ‘Vùng vẫy, vùng vẫy…Đừng có dại nghe con, chớ có tai mà cái gì cũng nghe, chớ có nghe mà không phân biệt được tiếng nào cũng là tiến quốc. Yêu nước, yêu nước… Đừng có dại nghe con. Quốc trong tiếng Việt có nghĩa là nước, quốc gia. Ở đây nó mang nghĩa bóng là kêu gọi lòng yêu nước và bao con chim đã chết, sa lưới vì nghe theo tiếng gọi nhầm đàn.
Và với chương chín ‘Ta Có Toàn Quyền’ nói lên một xã hội công dân trong chế độ Cộng sản ‘Tôi có toàn quyền trên vùng bán đảo này… Ở đây không có nghị quyết, sắc luật, sắc lệnh hay Quốc hội gì hết, nhưng mọi sự tốt đẹp…’ và trong sự giết người nhưng bạo chúa vẫn luôn nguỵ tín của sự cứu người’.
Chương mười hai ‘Adam & Eva’, thân phận con người trong chế độ Cộng sản bị lột trần hết trong một hệ thống tham ô mà ‘trẫm có chết thì trạng cũng băng hà’ rồi đến thân phận người trí thức qua lời của một anh kỹ sư trong cơn đói khát đã nạo cái chảo bếp bị lủng, bị mang ra kiểm điểm và anh nói lời của kẻ đường cùng đáng thương cho thân phận con người: ‘Học nhiều để nạo vét thật kỹ’. Và trong một chế độ duy vật tha hoá như vậy chỉ có đồng tiền mới mang lại hy vọng cho ai đó, nhưng hậu quả chính họ rước lấy cái bi thảm tiếp theo, trở thành nạn nhân bị tước mất hết tiền tài song sẽ không được gì cả.
Phiên toà XHCH và tiếng kêu qua lời nói cuối cùng của các  bị can đến LHQ về tình trạng vi phạm nhân quyền tại VN, nhưng cả hai tổ chức cũng chỉ là hình thức cho dù Hội Quốc Liên đến LHQ vẫn là niềm mong ước từ tác phẩm ‘Về Một Nền Hoà Bình Vĩnh Cửu’ của Kant. Nó vẫn chỉ là hàn lâm đến hàn lâm và nuôi dưỡng hàn lâm.
Chương mười sáu ‘Khu Tử Hình’ nơi huyệt mộ của những nạn nhân còn sống. Chính nơi đây trở thành một diễn đàn mà chúng ta có thể rút ra những khía cạnh nhân bản gồm các quan điểm chính trị như: tự do, chuyên chế, dân chủ cộng hoà, các học thuyết triết học… những khát vọng cao cả thật sự của con người trên một phần nào đó của hành tinh này ‘trong khi đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, những người Cộng sản kiệt sức và tự chôn lấy chính mình’. ‘Cái gốc rễ của vấn đề là tỵ hiềm, lòng tham, hám danh lợi, thiếu nhân ái… nên mới sinh sợ hãi’. Và theo những tử tù sắp bị mang đi bắn ở đây ‘nước Mỹ sẽ không bao giờ có bình yên, bởi vì có quá nhiều người trông chờ ở họ’…Một nữ tử tù can tội giết chồng, rất im lặng, thỉnh thoảng có ai hỏi thăm tha thiết mới hé môi ‘ta tiếc chỉ giết được rất ít đàn ông, chủng loại được gọi có linh hồn, còn giống cái như ta bị cho là không có linh hồn’.
Và rồi tất cả đều lưu chảy, hư vô lưu chảy hư vô. 
Các nạn nhân bị đưa đến các trại lao cải, con người bị đày đọa đến chết khiến các tù nhân thường xuyên phải quyết định chọn lựa giữa sống chết và thường là sự thất bại với cái chết diễn ra thường xuyên với các cuộc bạo loạn trốn trại không thành và bị bắn ngay tại chỗ dù có đưa hai tay lên đầu hàng. Với những ai ở lại trong sự chịu đựng thường đều mắc phải những trạng huống tâm thần khác nhau của triệu chứng rồi đến hội chứng loạn tâm thần bản thể. Tất cả các dạng tâm thần được mô tả dưới ánh sáng của khoa tâm thần học diễn dịch, với cách viết như các công án của Thiền minh tỏ.
Từ ám ảnh đến hoang tưởng, kể cả điên loạn tự tử, số còn sống sót mãn hạn tù, trở lại đời thường với phần hai của tác phẩm.

***
Tây nguyên với thành phố mộng mơ Đà Lạt và Buôn Mê được chọn như những thành phố tiêu biểu về cái nghèo bên cạnh có Quảng Bình, Quảng Ngãi… biểu tượng của nghèo nàn lạc hậu như bao tỉnh thành trong cả nước về sự phá hoại môi trường, ăn cắp tài nguyên thiên nhiên, các đảng chủ khai tử rừng để phá rừng. Trên đường đi thăm quan Đắc Lắc, du khách nhìn thấy những cánh rừng già đang co cụm như thoi thóp, cố gắng tồn tại trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời. ‘Thác Trinh Nữ cũng không còn gì để xem ngoài dòng nước đục ngàu chảy xuống’.
Xuyên suốt những con đường qua các tỉnh thành với những toà công đường xây cất đồ sộ như ở Quảng Bình người dân rất nghèo đến xơ xác, những tòa nhà thênh thang vắng bóng người với cách làm việc của những thương binh thời đại, hãy gọi là những Uỷ Ban Dưỡng Lão Nhân Dân thời danh từ có vẻ  thời thượng hơn và nếu có muốn làm thì đôi bàn tay thích làm bậy, một nền hành chánh đúng hơn là hành dân. Từ trại giam với lập trường ai không cùng giai cấp thì phải chết và một xã hội trên nền tảng ‘những ai không cùng trên hòn đá đỏ sẽ bị tiêu vong. Việc cứu người trong hoạn nạn cũng trên giai tầng cùng đẳng cấp, các công dân nạn nhân của một chế độ như ngay tại Sài Gòn với các bệnh viện đó là hình ảnh một chợ trời người ốm đau, những vật người đầy bịnh hoạn. Đến những chợ tình trên đất Việt ở khắp mọi nơi cận kề các Sứ Quán để kiếm chồng ngoại: đó là sự vinh danh phụ nữ thuộc thế kỷ 21. Trong khi các viên chức chính quyền chỉ thích rượu ngâm thuốc cường dương và các công dân với ‘Ruồi bảy món’ là biểu tượng của môi trường.
Chương hai mươi bảy, từ hỗn mang đến hỗn mang, từ lãng phí đến lãng phí gây nhiều bất an đến nhiều thế hệ. Một nền giáo dục không tìm thấy chính mình với những kỹ sư tâm hồn phá huỷ bao tâm hồn. 
Tất cả từ một cơ chế độc tài, chính nó là mầm mống hủy hoại xã hội. Với chương ba mươi ba, chuyện buồn cười ‘Ông Chủ Tịch Vẽ Bùa’, ‘người nào trong gia đình họ tộc cũng có giấy khen, có huy chương chiến công chống Mỹ… từ cha mẹ đến vợ, ông đều gắn huy chương hết, người nào cũng có giấy chiến công tất’.
Ab Chaos ordo, nghĩa là từ hỗn mang đến trật tự, người dân chỉ ước mơ mong sao trên đất nước không còn thù hận vì ngay chính những kẻ đi gieo mầm không hận thù có khi lại trở thành kẻ thù của nhiều người. Cuối của phần một và kết thúc tác phẩm Kinh Lạy Cha được viết  trong sự kêu gọi con người hãy tự cứu mình, hãy cùng nhau cứu khổ cứu nạn’ trong cảnh khổ. Đơn giản từ một chút triết học cho thần học ‘Hãy tự cứu mình, Trời sẽ cứu mình’.
Lạy Con người tự thân Con người. Nguyện danh Con người tỏa sáng. Nước Con người trị đến: Ý Con người thể hiện như nguyên uỷ vốn Thiện. Xin cho Con người hằng ngày dùng đủ. Và tha thứ cho nhau như Con người đối xử với nhau cho ra Con người. Chớ làm cho nhau sa chước cám dỗ, nhưng cùng nhau cứu khổ, cứu nạn. Ước được như vậy. 
  
 Nguyễn Quang.















PHẦN I
I
VỀ ĐÂU 
Con người có lúc chẳng may lâm vào hoàn cảnh như thế này, biệt giam là một căn phòng nhỏ và rất nhỏ đủ để nửa nằm nửa ngồi và nơi đó mọi sự thật đơn giản song cũng thật hỗn mang như những ngày khởi thủy Đấng Tạo Hoá dựng nên trời và đất.
Trong xà lim nhỏ để giam các tử tù hoặc những người đang bị tra cứu, nó được xây kín bởi nhiều bức tường thành, không có một chút ánh sáng nào lọt vào bên trong, ta có thể đưa bàn tay lên song không thấy gì cả. Nơi đây không còn phân biệt ngày và đêm… Một không khí bao trùm lên khắp cả: Sự tối tăm hơn cả mọi sự tối tăm.
Khoảng không, đất, trời...đây là kiểu nhà mồ chôn người sống, có một bệ nằm giống như một cỗ quan màu đỏ, ở đó được gọi là Căn Nhà của Quỷ.
Đất sinh cây trái và thảo mộc được sử dụng thành các loại bàn cùm, các tù nhân bị cùm chân vào đó trong một tuần lễ sẽ không còn đi lại bình thường được nữa. 
Qua một lỗ thông gió nhỏ, cơm canh được ném vào hằng ngày, nơi ánh đèn tuần tra soi quất vào xà lim… Đó cũng là ánh sáng duy nhất của các tinh tú và vì sao. Thời gian đều bị xáo trộn. Chim trời cá biển nào có biết… chỉ thấy toàn bọ, gián, nhất là các con giòi từ hố xí cứ trồi lên... chúng đi theo thành hàng hoặc bò lan khắp nơi. Và mọi chuyện kinh tởm đó cũng trở nên bình thường vì các tù nhân không còn cách nào khác hơn nơi thế giới nhỏ bé nầy, như với hai lít nước cho mỗi người trong ngày, để vừa ăn vừa uống và các nhu cầu vệ sinh khác.
Con người được tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng cách hành xử của con người thể hiện như thế nầy: Con người thay vì sinh sản cho đầy khắp mặt đất lại giết nhau ngay từ khi các phôi mới hình thành và có tội là tội từ trong tư tưởng, rồi phá hoại môi trường thay cho chinh phục đất đai -“Hãy cai quản các loài cá dưới biển, chim trên trời và muôn thú…” Song con người đã quay lại hãm hại lẫn nhau đến cùng mặt đất. Và nơi đây có một hình thái trả thù của con người: các tù nhân vừa ăn vừa phải đi cầu trong một cái bát.
Bài kinh trả thù bao giờ cũng kết thúc bằng lời hô hào đả đảo hoặc hãy bắn giết… Trong một lần vượt ngục thất bại, các tù nhân đã quì xuống và xin được khoan hồng nhưng viên trưởng trại đã nhất quyết một cách sắt máu ra lệnh bắn đồng loạt. Có người còn chưa chết, y kéo tóc lên và bóp cò thêm mấy phát gọi là ân huệ.
Con người thù hằn nhau đến mức được trả thù: một viên chức thuộc chế độ miền Nam trước đây, trạc ba mươi tuổi, bị nhốt trong một chiếc lồng sắt nhỏ đủ gói gọn một con người quẫy cựa trong đó. Và những người chung quanh đầy gươm giáo, họ đâm một cách man rợ như đang giết được loài thú dữ. Bọn họ nhảy múa ca hát các bài Lãnh tụ ca trước sự quằn quại, rên siết của nạn nhân… máu phun, con mắt lồi ra, quần áo rách nát và họ cố đâm thật nát mà không biết con người ấy đã chết tự bao giờ trong đau đớn.
Chuyện diễn ra tại thôn An Mỹ miền Trung Việt Nam . Có nhiều người và cả trẻ em vây quanh chứng kiến.
Trong trường hợp có quá nhiều kẻ thù, họ chôn sống tập thể, những kẻ chưa kịp chết đã cố vùng vẫy khiến các lớp đất bên trên như có sự chuyển động xập xình. 
Các cảnh sát đặc biệt thuộc đội hành quyết, họ lạnh lùng nhét quả chanh vào miệng các tử tù trước khi mang ra trường bắn và xem đó như lòng yêu nước, một nghĩa vụ, bổn phận quốc tế, vì tha nhân không cùng tư tưởng với họ. 
Xác nhiều người Việt Nam nằm trơ vơ, bị lôi đi trên khắp đường phố và cả người sống bị hành hạ, cạo trọc đầu, bịt đồ dơ trước miệng dẫn độ qua các nẻo đường khi đất nước gọi là thống nhất.
Theo Sách Sáng Thế ký: ngày thứ Bảy ấy, ngày Thượng đế nghỉ ngơi mãn nguyện, nhưng nơi đây có nhiều tiếng khóc than, nhiều người trong tuyệt vọng; song, bao giờ ngọn lúa còn mọc ngoài đồng tiếng chim còn hót, con người vẫn còn ước mơ và hy vọng: Niềm mong ước thật sự của con người nơi chốn khốn cùng bi đát nhất không phải là Tự do vì ai cũng nhân danh Tự do về phía mình… Không một giáo phái, không một chính phủ, không một trường phái nào mang lại Tự do đích thực khi còn là một khuynh hướng. Con người mong ước có tình yêu vì trong sự cảm nghiệm trước cái chết rằng: Chỉ khi nào có tình yêu thật sự lúc đó con người mới có Tự do... 
Và Tự do ấy thể hiện tính thể của nó theo các giá trị chung mà nhân loại cùng công nhận: nó là những giá trị Phổ Quát, những giá trị nầy được thể hiện qua các tổ chức quốc tế như Hội Quốc Liên, Liên Hợp Quốc. 


II.
THẾ GIAN NHƯ THỊ
  
Những đứa trẻ nhảy cò cò, chúng mãi chơi, người đàn ông trạc tuổi lục tuần bấm chuông đã nhiều lần nhưng chúng vẫn không vội trả lời… Ông ta kiên nhẫn đợi chờ và bấm chuông lần nữa thật dài, chúng mới cất tiếng đáp lại: Ba mẹ đều đi vắng… Bố đi làm rẫy, mẹ ra chợ trời.
Cái khoảng sân rộng của ngôi biệt thự nhỏ sang trọng, không ai nghĩ điều đó đúng. Chân đá nhẹ trên những viên sỏi trắng xám, miệng lầm bầm: cái thời trẻ con cũng biết nói láo, rồi ra về ngoài lời nhắn: Có bác Chu là chỗ bạn thân với ba mẹ con từ các trại tập trung trở về đến thăm và sẽ hẹn gặp lại vào ngày...
Đến ngày hẹn, sau khi quan sát thật kỹ và nhận ra đúng là khách quen, cánh cửa mới từ từ mở, hai người bạn cũ gặp nhau thật mừng qua ánh mắt, song cả hai vẫn chưa nói với nhau một lời nào cho đến khi họ vào đến phòng khách, các cánh cửa đóng kín cẩn thận, họ mới bắt đầu câu chuyện.
Cả hai vẫn còn nghĩ ngợi… căn phòng này trước đây các bạn hữu thường gặp nhau, song bây giờ mọi thứ bắt đầu phủ một lớp bụi mỏng, các bức rèm nhiều bụi hơn… những cánh hoa uất kim hương đã khô từ lâu nhưng sắc lại, các thứ dường như chưa muốn vội lụi tàn.
- Bác từ các trại tập trung trở về đã lâu chưa? Người bạn hỏi.
- Tôi mới về đang bị quản chế, không được phép đi đâu hết, tôi tìm cách đến thăm Bác rồi về ngay. Lão Chu đáp.
- Các trại tập trung bác đã qua như thế nào...
- À... nó giống như một xã hội thu nhỏ: Sống và Chết, Tự do và Khát vọng, miếng cơm manh áo, tranh giành và cấu xé lẫn nhau... bình thường thì như thế nhưng lúc chia cơm mới thấy con người là thế nào, mọi con mắt đều dõi theo từng hạt cơm, có người từng là viên chức cao cấp cũng yêu cầu phải dùng đến cân tiểu ly lúc chia chác mới công bình... đánh nhau, tiếp tục đánh nhau lịch sử mà… Lão Chu cười, và tình đồng loại, đùm bọc nhau cũng có, nhưng để ăn được chiếc bánh bột khoai mì đen, thường gọi là bánh xe “lịch sử”, các tù nhân khốn cùng phải xách một xô nước hoặc một chầu đấm bóp cho những người khá hơn. Nó là một xã hội thu nhỏ, nhưng là một xã hội khác thường, mọi thứ xảy ra không bình thường - “manger, manger pour manger”, hầu như đó là yếu tố chính trong các thuộc tính của con người. Tôi và nhiều bạn tù khác đã chứng kiến nhiều tu sĩ ngã người bò sạp xuống đất để được ăn cỏ non và uống nước mương rãnh… Tôi đã thấy các tử tội và những người bị giam giữ để điều tra vì quá đói đã phải ăn dần hết các chiếc chăn đắp, áo quần… và ai cũng có cảm giác mình đang nhai cái gì rất ngọt… Các tù nhân hết thảy đều rơi vào tình huống của hội chứng thèm thuồng và họ luôn nói về cái ăn… vì cơ thể đang có nhu cầu về mọi thứ.      
Còn về khía cạnh tinh thần, họ biết chắc dù có muốn cũng không được gì, ngoài những việc làm để tự an ủi mình. Họ trông chờ người Mỹ, nhưng rồi ra người Mỹ sẽ không bao giờ trở lại như trước… Họ trông người Pháp “mẫu quốc xưa kia của họ”, nhưng Cha ông họ đã để lại một gia tài có thể cảm nghiệm được: không ai nói hay bằng người Pháp… Vậy chỉ còn trông chờ vào Cao ủy nhân quyền Liên Hợp Quốc, nhưng mỗi lần có tin Cao ủy chuẩn bị đến là các tù nhân khổ sở hơn ai hết: họ bị mang đi cất giấu những nơi mà các tù nhân vẫn thường dí dỏm: giấu như mèo giấu phân của nó... nào là kẻ bị kiên giam, doạ nạt và tất nhiên cũng có kẻ được xoa dịu để sắp xếp cho được gặp Cao ủy. Trong khoảng thời gian có tin Cao ủy đến, đó là đại họa cho các tù nhân vốn muốn sống an bình một chút trong chuỗi ngày lao cải. Song Cao ủy đến, Cao ủy đi... khiến nhiều tù nhân phải chết ít ra là vì đau tim hay bịnh ngặt nghèo trong lúc bị cất giấu.
- Thế Bác đã sống sót và vượt qua được nhờ làm sao?
- Tôi luôn tập thể dục, ăn kiêng, chỉ ăn thức chín, các tù nhân chết nhiều hoặc kiệt sức đều khởi đầu bằng bệnh đường ruột… có thể nói mọi sự khởi đi từ cái miệng.
-   Nghe nói nhiều kẻ ăn thịt người trên các chuyến vượt biển, Bác có gặp họ không?
- Có, họ cũng bình thường như chúng ta, và cả những kẻ hiếp dâm giết người, cướp của nữa… những con người ấy vào tù, tôi nói có vài người, cuộc sống rất hiền hòa, nhưng chúng có nét chung: tránh tiếp xúc thường xuyên, rất lạnh lùng. Tôi sống chung với mấy người từng ăn thịt đồng loại trên biển khi cạn kiệt lương thực… sao mắt người nào cũng đỏ.
- Thế còn bác gái và các cháu như thế nào?
- Tất cả như hoàn cảnh của nhiều gia đình các viên chức chế độ miền Nam, đều bị đưa lên vùng kinh tế mới, với túp lều xiêu vẹo cùng mấy tấm lá che chung quanh. Còn nhà cửa tại thành phố bị tịch thu, bị cưỡng bức ra khỏi nhà và bị đẩy lên xe… Hiện nay cả khu kinh tế mới ấy, khoai mì cũng không có đủ ăn… Tôi thấy chúng nó đói nằm soải ra, đến củ chuối mới trồng cũng đào lên và… hết thảy đều say, say với đủ mọi của ăn lạ... Còn các cháu lớn của anh như thế nào? Lão Chu hỏi.
- Chúng không được vào cũng như tiếp tục theo học đại học vì lý lịch… nhà tôi cũng không dạy học nữa, phải ra chợ trời để bán tháo các vật dụng trong nhà mà chi dùng hằng ngày, rất may tôi chưa vào tù vì đã nghỉ hưu trước khi đất nước thống nhất nhưng có tin sẽ có lệnh tái tập trung các viên chức chế độ cũ.
- Chúng ta đang đứng trên tảng đá nào đây? Lão Chu   nói.
- Không có hòn đá nào trên hòn đá nào cả, thời nào cũng thế, chỉ có hòn đá được ném đi mới có giá trị mà thôi… Lão tiếp.
-  Đúng tất cả đều lưu chảy…
- Và trên dòng sông này, Lão Chu liếc mắt dò xem thái độ của người bạn, chúng ta chỉ còn biết xuôi thuyền ra biển, trăm kế không bằng: dĩ đào vi thượng sách... A, tôi có người thân sau hai mươi năm xa cách vì đất nước chia đôi, lúc gặp lại khi hỏi thăm nhau về sức khoẻ, người vợ xanh xao, anh chồng hơi khá hơn và chị ấy bảo: anh ấy nhờ mấy cái thai nhi của tôi nên mới được như thế. Câu chuyện thật kinh hoàng, nhưng cả vợ và chồng thuật lại nhiều lần như một nhu cầu bình thường vì nó là những gì đều có thể xảy ra dưới chế độ XHCN... Con người ăn thịt đồng loại và ăn cả chính con cái mình như một liều thuốc bổ.
Lão Chu chào từ biệt họ nói nhỏ với nhau những gì đó, rồi chia tay, người ta còn nghe rõ tiếng lão Chu: Thế gian như thị, thế gian như thị. 
 
III.
HIỆN TÌNH SÀI GÒN 
KHI VIỆT CỘNG CHIẾM ĐÓNG
  
Những ngày tháng gần đến khi miền Nam hoàn toàn rơi vào tay cộng sản, ngay tại trung tâm Sài Gòn dưới sự cố vấn của các Linh mục Dòng Tên người Việt và kể cả các vị có quốc tịch khác nhau, Thiện Nam một đại diện sinh viên Công giáo đứng ra tổ chức nhiều cuộc thảo luận tìm hiểu cộng sản là ai, sẽ làm gì và trong sự hoảng sợ chung khi nghe đến từ Việt cộng… vậy mỗi người Công giáo nhất là giới trẻ sẽ sống chung thế nào khi cộng sản chiếm đóng? những cuộc thảo luận phần lớn có nội dung thuật lại kinh nghiệm những gì xảy ra tại Hoa Lục khi Trung cộng chiếm đóng. Nói chung là chúng ta đón chờ sự ác khủng khiếp vô cùng và cái ác đó chẳng may đến với mỗi người theo số phận. Thiện Nam và nhiều sinh viên khác không hài lòng đủ cho dù là với nhiệt tình của quý Cha Dòng ngoại quốc vì chính đây là thân phận của những người giáo dân Việt Nam, chàng tìm gặp vị Tổng Giám mục Sài Gòn nhưng đều có thông tin cho biết Ngài đang an dưỡng tại Long Hải, Vũng Tàu… cho đến khi Thiện Nam dẫn một đoàn sinh viên Công giáo khoảng trăm người dưới danh nghĩa đi tĩnh tâm có cuộc gặp giữa chàng và Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình tại Tu viện Phước Lý, Thủ Đức. Trong lần gặp này có Lm đặc trách sinh viên của Dòng Tên, Đan Viện Phụ của Dòng Phước Sơn, suốt cả mấy tiếng đồng hồ tất cả đều chờ Đức Tổng huấn từ một lời dụ nào nhất là sự gần gũi vào bữa cơm trưa hôm ấy, nhưng không ai nghe vị lãnh đạo tinh thần này nói gì cả. Thiện Nam và các bạn hữu thất vọng vô cùng, nhưng đức vâng lời như an ủi trong mỗi người: thôi biết đâu đó lại là đức khôn ngoan của các Chủ chăn! Cuối bữa cơm trưa lúc Thiện Nam cầm bì thư cảm ơn Đức Đan Viện Phụ, chỉ có Ngài mới nói mấy lời và cũng tỏ rõ quan điểm của Ngài qua lời nói nguyên văn: cộng sản đã chiếm Buôn Mê Thuột – trên nét mặt Ngài đầy vẻ ưu tư, Ngài tiếp: - Chúng ta phải cầu nguyện thật nhiều. Về sau Thiện Nam được biết Ngài bị bắt và bị đưa vào các trại tập trung không lâu khi Việt cộng chiếm miền Nam. Đan Viện Phụ đã không nhận phong bì ấy, đặc biệt trong bữa cơm toàn là gạo lức có màu đỏ do chính nhà dòng sản xuất, thức ăn gồm cá tra và các loại rau cũng vậy, nhất là nước mắm rất ngon có hương vị riêng của mắm nhà Dòng.
Cho đến ngày 30/4 rồi buổi mít tinh 1/5 “mừng quân cộng sản chiến thắng” trên lễ đài người ta thấy có Đức Tổng Bình, Hoà Thượng Trí Tịnh - người Thầy khả kính dạy Phật học cho Thiện Nam ngày nào tại Đại Học Vạn Hạnh, cùng nhiều chức sắc tôn giáo khác đứng trên lễ đài với các lãnh tụ cộng sản Việt Nam vẫy chào từng đoàn quần chúng diễu hành qua lễ đài trước dinh Độc Lập. Thiện Nam có mặt trong đám người tò mò đi xem mít tinh, chàng cố nhìn thật rõ và đúng vậy. Có đặc điểm trên lễ đài vào thời điểm này và nhiều thập kỷ sau dưới chế độ cộng sản nó rất bát nháo, quần áo thì bỏ ra ngoài xốc xếch để cố tỏ ra là bình dân, hoà đồng với quần chúng những người nghèo khổ. 
Cũng từ ngày Việt cộng chiếm đóng toàn lãnh thổ này mỗi tháng, mỗi quý, mỗi năm đều có các ngày lễ hội, kỷ niệm hết chiến thắng này đến chuyện làm “lừng danh lịch sử khác” mà hầu như không giống ai xét theo từng thời kỳ trong lịch sử nhân loại. Người cộng sản hầu như không bao giờ có thất bại và chịu thất bại, chỉ có xác chết của binh sĩ và người dân vô tội bị lợi dụng phơi thân đầy trên chiến trường. Cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một ví dụ, năm ấy Thiện Nam đang tuổi vào đời và chàng chứng kiến bao nhiêu bạn trẻ như chàng bị xích vào những khẩu súng lớn và bị bắn chết, người Việt Nam hay nói yêu nhau xin đừng tặng khăn cho nhau, không rõ điều đó có đúng hay không vì trong túi áo của người lính trẻ miền Bắc nào lúc chết trên chiến trường nếu mở túi ra thường đều có khăn tặng của người yêu ở lại lúc chia tay. Nói về những lễ lớn quanh năm trong chế độ cộng sản, nó giống như trong các gia đình làng tộc ngày xưa với không biết bao nhiêu là cái giỗ quanh năm.
Nhưng trong những cuộc mít tinh rầm rộ và hung hăng nhất không phải là những kỷ niệm mừng chiến thắng với những bài diễn văn hùng hổ, mà là những lễ xuất phát từ chỗ bí mật đến công khai khi ra quân ăn cướp trắng trợn tài sản của người dân miền Nam với các chiến dịch đánh tư sản, người ta sẽ không thể không bao giờ quên hình ảnh của Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt múa tay, múa chân hô hào diệt tư sản trên khán đài tại sân Thống Nhất và v.v...
Người dân miền Nam nhất là những gia đình có người thân tập kết ra Bắc nay trở về, họ bắt đầu hiểu dần cách tiêu tiền của các bí thư cộng sản, nó không dựa trên lề lối cai trị một quốc gia theo luật pháp mà giống như cách chia tiền ở Lương Sơn Bạc. Người dân đồn đại từ các nguồn tin do các bí thư cộng sản tung ra, Tổng Thống Thiệu đã mang mười bảy tấn vàng ra ngoại quốc, thế nhưng nhiều người miền Nam qua các nguồn tin mà họ có được, ai cũng hiều được rằng với cách chi tiêu của các lãnh tụ cộng sản gồm Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê đức Thọ đã xài hết mười mấy tấn vàng không lâu sau đó. Cho đến hôm nay và mãi đến mai sau cũng không bao giờ có được chứng từ về các khoản chi tiêu nguồn tài nguyên này từ tay bọn vô sản lưu manh khi cướp được chính quyền. 
Thượng bất chính và hạ tất loạn từ trong hàng ngũ bọn lưu manh, nghĩa là loạn trong cách cướp tài sản ruộng vườn của người dân nhưng chúng cùng tồn tại trên bè của sự ác cho đến khi lương tri của cùng cả một dân tộc bừng thức tỉnh song sự ác kia vẫn còn vì trong mỗi cá nhân hãy còn lòng tham, sự đố kỵ, hận thù… Với mọi chiến dịch để vơ vét của cải cùng làm cạn kiệt nhân lực của người miền Nam, tất cả những người có trình độ phần lớn họ đều bị động viên phải vào quân đội trước đây và nay phải vào các trại tập trung. Không có gia đình nào ở miền Nam mà không có người bị tù đày. 
Những người phụ nữ vẫn cuộc sống tưởng bình thường, song họ là những người chịu áp lực nhiều nhất trong hoàn cảnh này: chồng con phải vào các trại tập trung, họ bị tống ra khỏi nhà và phải lên vùng kinh tế mới, nạn trộm cướp hoành hành trong nhiều nỗi lo cùng sợ hãi họ truyền miệng với nhau người nào ra đường cũng mặc hai quần vì nhỡ bọn lưu manh trộm cướp lột mất quần ngoài hãy còn quần trong kịp trở về nhà. Thật vậy qua những chính sách mới của nhà cầm quyền việt cộng như đổi tiền liên tục, bao nhiêu không cần biết chỉ phát bình quân cho mỗi người mấy chục đồng vào thời điểm đó, rồi những chiến dịch đánh tư sản.v.v… khiến người dân miền Nam nghèo đi một cách thảm hại từ sự bần cùng hoá nhân dân đưa đến “bần cùng sinh đạo tặc”.
Những người phụ nữ Sài Gòn, nói chung cả nam phụ lão ấu đứng đâu gãi đó vì dịch lở loét, ghẻ ngứa do quân cộng sản Bắc Việt mang từ rừng sâu về thành phố, càng gãi càng ngứa giống như lòng tham lam của bạo chúa không bao giờ lấy làm thoả mãn và mọi người trong đùa bỡn: -“cách mạng” về ai cũng đổi đời, có người dùng từ nặng hơn “sâu bọ lên làm người” nên có khác, ai cũng bị dị ứng khó chịu, ngứa ngáy.
Những nữ Việt cộng , họ là những Bác sĩ, Y tá… người nào cũng có nghề tay trái là chăn nuôi lợn, khi chiếm miền Nam họ được bố trí vào ở nơi các cao ốc, biệt thự từ nhiều người đã di tản bỏ lại. Họ biến các phòng tắm rộng rãi thành những chỗ chăn nuôi heo gọi là cải thiện. Và đặc biệt mỗi chiều về họ giành nhau các thai nhi cùng mọi thứ nhau mang về nấu cháo cho heo ăn. Quả vậy, nhiều người đều chứng kiến con lợn nào được bồi dưỡng các món này đều chóng lớn, da dẻ hồng hào hết chỗ chê cùng tiếng kêu ụt ịt cũng to và năng động, nếu được lên diễn đàn sẽ “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” hơn những con khác.
Những phụ nữ thành phần gọi là cách mạng 30/4, họ không ngồi yên một chỗ hay chạy rong khắp phố phường, dòm ngó hết nhà này đến nhà nọ. Họ là những người tham gia các hội liên hiệp phụ nữ, hội kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ trẻ em… những hội chuyên lo đi vận động nạo phá thai bằng mọi cách. Và quý bà thuộc hội trí thức yêu nước, nhà giáo yêu nước… rõ là lắm hội với cái miệng có quai, lưỡi dài đến cổ khi báo cáo về thành tích của phụ nữ hoặc lập lại những bài trường ca nô lệ khắp các cơ quan, công đoàn, bệnh viện, trường học.
Trong một cuộc mít tinh kỷ niệm ngày sinh của lãnh tụ tối cao, khi đọc đến chỗ “bác đã ra đi”, các nữ trí thức này khóc thút thít, có nước mắt thật, làm nhiều người nhớ đến đội ngũ khóc mướn trong các đám ma ở miền Nam trước đây. Tất cả thật là một “phường giá áo túi cơm”, tất cả giống nhau vì sự tồn tại thấp hèn nhất. Những trí thức này biết rõ hơn ai hết đó chỉ là thứ sinh nhật cuội, nhưng nghĩ đến đó họ càng khóc lớn để qua sự có mặt của cái giả này mà cái giả kia tồn tại.
Những ngày đầu thống trị của cộng sản, Thiện Nam nhận thấy các tôn giáo chính tại Việt Nam đều không có sự chuẩn bị cho sự thích nghi trong hoàn cảnh mới, các phụ nữ họ “chạy chồng” nhiều hơn và Thánh đường, Chùa chiền không ngoài các lễ nghi mục vụ, thuần túy tôn giáo, rồi ngày dần biến dạng hẳn dưới chế độ cộng sản: tự do tôn giáo trở thành thứ cầu đảo, mê tín đầy hủ tục. Trong các chuyến tàu vượt biển, mọi người được biết phụ nữ bao giờ cũng nhiều, số bị bắt lại vào tù phái yếu cũng nhiều nhất đến không chỗ chứa nên thường được thả ngay. Có lẽ số bị hải tặc, hãm hiếp và chết nhiều nhất cũng là phụ nữ.
Phụ nữ được đào tạo trong chế độ cộng sản đều có quan niệm con người không có linh hồn. Hằng ngày nhiều người chứng kiến tại bệnh viện ung bướu vào thời điểm này, họ thấy rõ trước mắt bao sự khổ đau: chân tay của đồng loại rớt ra cùng bao bộ phận khác đến lúc không thể cùng tồn tại trong một cơ thân… vì thuốc men hầu như hoàn toàn không có với người dân nghèo, nếu có chút thuốc nào đều phân phối theo đẳng cấp, nghĩa là cán bộ, đảng viên cộng sản nếu có chết trong giờ lâm tử cũng sẽ ít bị ám ảnh tâm thần bởi sự ác các đồng chí đã làm. Tất cả được vứt vào các thùng vệ sinh mang đi, những bộ phận từ cơ thể ấy có được chia linh hồn hay không? Xác thịt rời ra bị chia tách khỏi cơ thể sẽ không có linh hồn ư? Vậy linh hồn nằm ở đâu? Một vấn đề được đặt lên từ muôn thuở! Ở đây và bây giờ, đúng thật những phụ nữ trên quê hương Việt Nam này dưới sự cai trị của cộng sản đang là giống cái không còn biết có linh hồn!   


IV
MẸ KHÔNG CẦN VÀNG 
     
Hành tinh nầy là một mái nhà chung, song con người cứ trốn chạy hết nơi nầy đến nơi khác. Nhìn từ ngoài vũ trụ nó thật bé nhỏ, và cứ bất an ở chỗ nầy lại đào thoát đến nơi kia. Có một tâm lý hoảng loạn bao trùm trên đất nước nầy cùng nhiều dân tộc khác, trong sự linh cảm hoàn toàn là cảm nghiệm: họ dự đoán rằng chế độ mới nghiệt ngã hơn khiến các công dân hoảng hốt… Chưa có một dân tộc nào các công dân sợ hãi các nhà lãnh đạo của mình như dân tộc Việt Nam… Chưa có cuộc di cư nào đến cả triệu người và hơn phân nửa bỏ mình trên biển cả.
Một dân tộc luôn đi trên tiền đề: Sự khởi đầu luôn từ sự kết thúc, trong cái chết để mưu tìm sự sống, trong thất vọng luôn tìm ánh sáng hy vọng… và dân tộc đó từng trải qua các triều đại từ dòng tộc nầy đến các dòng tộc khác, nhưng rất khó tìm ra các vị vua minh triết… Nên sự khởi đầu mới nơi đây luôn thường là cái chết, sự đau thương, mất mát.
Trong sự hoảng loạn của người dân Sài Gòn trước việc khủng bố liên tục của chính quyền mới, Thiện Nam có quyết định ở lại Việt Nam cùng bao người bất hạnh khác ít ra là ghi lại tiếng nói cuối cùng nơi mỗi con người trên một đất nước không tù trong cũng tù ngoài. Trong nhiều khuynh hướng khác nhau để chọn lựa cách sống phù hợp dưới chế độ cộng sản như Giáo sư triết học Lê Tôn Nghiêm phát biểu ngay trên giảng đường Đại học Văn Khoa Sài Gòn khi quân Việt cộng tiến vào đến Xuân Lộc: “ở bầu thì tròn ở ống thì dài, vậy thôi”. Ông rất mến Thiện Nam và vài tháng sau đó khi gặp chàng, ông nói: -Nhiều “đứa” cả giáo sư ngay ở Đại học Văn Khoa, Vạn Hạnh…cùng sinh viên, chúng nó “bầu và tròn” quá nhanh, còn mình nói song không làm. Ông cũng đã có kế hoạch đi vượt biển với Thiện Nam nhưng không thành. Giáo sư Tiến sĩ ngữ học Phạm Hữu Lai, về sau là Linh mục Dòng Tên khuyên chàng nên gia nhập đoàn thanh niên cộng sản để có nhiều cơ hội tương lai… Trong nhiều nẻo đường mà một đại diện sinh viên có thể có ảnh hưởng đến nhiều bạn trẻ khác, chính Thiện Nam đã cùng một Linh mục học giả Dòng Tên khác âm thầm hoạt động cho các quyền cơ bản của con người và đưa đạo Công giáo Việt Nam thành một đạo nhập thế thật sự. Mỗi Chúa Nhật đều có Thánh lễ riêng tại Trung Tâm Đắc Lộ Dòng Tên Việt Nam và sau đó là các buổi hội thảo gọi là agabê - buổi điểm tâm có toạ đàm về một đề tài nào đó, nhưng không lâu sau những tư tưởng về các quyền con người qua đạo nhập thế đã bị lọt vào tầm ngắm của công an và chỉ chờ có nguyên cớ là tất cả bị bắt. Thiện Nam đã nhận ra điều này khi công an chìm hiện diện rất nhiều trong các thánh lễ cũng như trong các buổi toạ đàm, chàng đã linh cảm được điều này và bắt đầu tìm hiểu các tổ chức vượt biển như một cao trào bỏ nước ra đi để tránh khỏi bị bắt chắc chắn không tránh khỏi với những người luôn chủ trương bắt lầm hơn bỏ sót.
Thật vậy, chẳng bao lâu sau ngày chàng lên đường các Linh mục Dòng Tên tại Việt Nam đều bị bắt qua một nguyên cớ nhỏ*: tất cả các vị đều bị bắt oan và xử án oan, trừ Linh mục học giả Lê Thanh Quế nhưng Ngài đã cùng Thiện Nam cũng chỉ đấu tranh mang lại các quyền cơ bản của con người dưới hình thức bất bạo động. Song với Việt cộng, nghĩa là tóm sạch, dọn sạch cái đầu não của Kitô giáo Việt Nam. Trong số các Linh mục bị bắt có Bề Trên Nguyễn Công Đoan, có lẽ là Bề trên trẻ nhất vào năm ấy chỉ mới ba mươi hai tuổi, ông trở về Việt nam như sự hy sinh cao cả chỉ có vài ngày trước khi Sài Gòn thất thủ, trong Thánh lễ bàn giao chức Bề Trên giữa Lm Sesto Quercetti người Ý, tức Hoàng Văn Lục tên Việt Nam. Thật cảm động, nhất là mọi người được nghe lại những lời tiễn biệt từ thành Rome để đưa vị Linh mục trẻ nhiều triển vọng lèo lái Giáo Hội Công giáo Việt Nam này về nước, nhưng bề dày của Ngài có lẽ không đủ so với tường đã rêu phong đầy bá đạo mà tính chất của những gì nhị nguyên từ Phương Tây không thể nào hiểu nổi với sự ẩn tàng đầy bá đạo lẫn trong nhất nguyên có phụ đạo của nhị nguyên. 
Nhưng dù sao Giáo Hội Công giáo Việt nam cũng đã có được cây gậy dẫn đường vào những năm tám mươi trước khi Ngài vào tù. Từ tri đến hành quả là bài toán nan giải. Cuộc sống trong tù như sự thể hiện qua “Hiến chương” do chính mình soạn thảo, nhiều khi có những cái mình nói lên được mà làm không được và hình ảnh của các Linh mục Việt Nam ngày nay là một hệ quả tất yếu của những sai lầm từ Rome khi đặt những quyết định còn trên sự chi phối các quyền lợi chính trị nhất là quyền lợi ấy thuộc một Hồng Y có quyền lợi gắn liền không trên giá trị của nhân loại nhưng trên sự hẹp hòi của dân tộc Ngài. Và chuyện này sẽ còn mãi như chuyện trái đất là vuông.
Trong gần một thập kỷ sau ngày thống nhất, những chuyến tàu vượt biển vẫn tiếp tục ra khơi. Họ đi tìm sự an cư trên miền đất hứa sao cho con người có quyền hy vọng, và trong khả năng giới hạn của loài thụ tạo, họ được làm những gì mình muốn mà không tác hại đến tha nhân, còn ở  đây cho dù họ có xin vâng cũng không được. Họ xác tín điều đó với hy vọng bất cứ nơi đến là đâu cũng có thể mang lại chút tình nhân ái của đồng loại, mà điều đó rất khó tìm được trên quê hương mình.
Khi con người trong xã hội với cái gọi là: không còn chó sói với người, nhưng con người với con người thì thật kinh hoàng hơn, một khi cái cốt quỉ trong mỗi cá nhân được hợp thức hoá thành chủ trương, chính sách thì chỉ ai đó có “đoạn trường... qua cầu mới hay”.
Chủ trương tự do tôn giáo và tự do không tôn giáo, cái tự do không tôn giáo đó mới là điều tệ hại, nó có nghĩa là con người có quyền đi ngược lại các giá trị phổ quát mà vốn tôn giáo theo nguyên ngữ - relege - là sự liên đới giữa con người trên căn để những giá trị chung về Chân Thiện Mỹ. Và cái không tôn giáo nó có quyền phá đi các giá trị đạo đức chung, cũng như được quyền xây dựng trên một bè nhóm khuynh hướng… Chính trên nền tảng tinh thần ấy không còn nữa mà các công dân mất niềm tin, hoảng loạn… Việc mất của cải tài sản qua các chiến dịch gọi là đánh tư sản, thậm chí mất cả người thân qua các đợt tập trung cải tạo, con người có thể chịu đựng và tìm lại được, nhưng chính yếu tố con người không còn kỳ vọng ở mai hậu mà tôn giáo là đường đến hy vọng… không còn nữa.
Lão Chu với tấm lòng hào hiệp đã đưa cậu con lớn của người bạn năm xưa lên đường ra nước ngoài. Dù vậy người bạn cũ nầy cũng lo toan mọi chi phí, chỉ mong sao sự ra đi được tuyệt đối bí mật và an toàn, người con cả ra đi mang theo vàng và tiền bạc.
     Họ cùng đến nhà một người thân tín của lão Chu, đó là một nhân viên cấp dưới của lão trước đây, khi còn quyền lực. Và nay nhân vật nầy trở thành an ninh khu vực thuộc một vùng trên bán đảo, nhờ các thành tích của gia đình có nhiều người  tham gia trong chế độ mới.
Ông an ninh gặp lão Chu đầy sự mừng rỡ, bản thân đã từng được lão cứu mạng nhiều lần do các mối liên hệ với thân nhân ở phe miền Bắc. Câu nói đầu tiên khi gặp nhau sau vài năm xa cách trong một hoàn cảnh đặc biệt của đất nước với phong trào vượt biển lên cao, nhất là với tư cách một người có uy quyền dù ở nơi góc biển, ông Tam nói: Bác cần lên đường không? Ông Chu mỉm cười… Riêng mụ vợ chen vào: ... mang theo bao nhiêu vàng, sắp có chuyến đi rồi, chúng tôi sẽ thu xếp ngay. 
Đêm hôm đó, trong trang phục hóa trang của quân du kích, họ ra thăm bến bãi để nắm tình hình, các cư dân đã quen với hình ảnh ông Tam đi tuần tra, nên không ai để ý. Họ vào một căn nhà và lớn tiếng đòi xét hộ khẩu, xem có ai là người lạ đến cư trú bất hợp pháp. Các ngư dân ở làng nầy đã quen chuyện xét nhà từ các cao trào vượt biển, nên không ai lo sợ, có chăng nếu gia đình nào đang chứa các thuyền nhân, họ chuẩn bị tiền để hối lộ. Khu nhà họ vào đêm nay là của một chủ ghe, và tất cả đang thương lượng.
Hơn ai hết, các viên chức công an địa phương biết rất rõ về các chủ ghe trong vùng, ngay cả việc chuyến nào sẽ lên đường ra đi trước sau. Và cứ mỗi chuyến như vậy họ thường nhét thêm vài chỗ vì đã có công tạo sự an toàn cho chuyến đi lúc rời bến.
Nhân dịp mừng sinh mhật Lãnh tụ tối cao, bây giờ cũng là mùa tháng ba “bà già đi biển cũng tốt” theo lời truyền trong dân gian, viên trưởng công an đã thết tiệc liên hoan suốt đêm và thế là các du kích quân đều say, trên bến bãi của vùng bán đảo đang thật sự sôi động, nhiều ghe thuyền đã tổ chức sẵn sàng và rỉ tai nhau trước đó để chuẩn bị đêm hôm ấy cùng ăn hôi. Từ các bãi cát, người ta bắt đầu vội vã đào xới lên các hầm chứa xăng dầu, thực phẩm, thuốc men… được chôn sâu dưới lòng đất. Các toán thuyền nhân ẩn nấp ở các khu nhà ven biển vội vã xô đẩy nhau lên ghe một cách hỗn loạn. Hầu hết các chủ ghe đã bố trí gia đình họ có mặt đầy đủ trên thuyền, chỉ có khách là thiệt thòi, ghe nào trong chốc lát cũng đầy ắp, họ đành phải nhổ neo… nhiều người bị bỏ lại.
Tiếng khóc than, tiếng kêu cứu của những người đã đóng vàng bạc nhưng không kịp lên ghe… tiếng hô hào lấy lại trật tự của ban tổ chức, tất cả trong hoảng hốt và lộn xộn vô cùng. Tiếng la ó của những kẻ ăn hôi và nhiều cảnh xót thương xảy ra trong những đêm chạy loạn tìm đường ra khỏi đất nước trên bờ biển nầy. Tiếng khóc nấc của các cháu bé trên tay của những người ở lại, sóng cát như muốn lôi họ về phía thuyền đã dần xa khơi. Trong mọi thứ âm thanh hỗn tạp người ta vẫn còn nghe rõ các tiếng vọng thật cao xa:
- Mẹ ở lại nuôi cháu… Nó còn nhỏ quá không thể, không thể… lên đường !
Có tiếng đáp lại cùng tiếng khóc trong vô vọng mỗi lúc một khàn hơn và nhỏ dần: - Mẹ không cần vàng, Mẹ không cần vàng.
Trong số những người bị bỏ lại có Thiện Nam, con một người bạn lão Chu, anh đã nhường cho phụ nữ và trẻ em lên trước, nên lúc ghe rời bến đã bị bỏ lại, cho dù đã đóng đủ vàng bạc. Những lời cầu nguyện, niệm Phật, khóc than xin được thứ tha, các thứ âm thanh như của một buổi chiều cầu kinh cuối cùng nào đó… pha lẫn tiếng: mẹ, mẹ không cần gì hết, mẹ muốn gần các con… dù có cùng chết. 
Sáng sớm hôm sau, các ngư dân vẫn còn thấy người đàn bà đáng thương ấy hãy còn lảng vảng trên vùng bến bãi  đêm qua, nhiều tiếng thúc giục quanh bà lão của những người ở đây vốn quá quen với cảnh nầy: Hãy nhanh lên kẻo bị bắt đấy… Hỡi bà kia… Hãy nhanh lên và đi khỏi nơi nầy. 

V
CẢ  TIN
 
Ông trùm tin vào Cha xứ, Cha xứ đặt tin tưởng vào ông bí thư của Đức Cha. Ngài cố vấn ngoài tin Chúa lại rất thích nghiên cứu khoa tử vi đẩu số, chiêm tinh… Không biết ông tin đến mức nào nhưng nó là nhịp cầu rất tốt để ông có thể giao tiếp với nhiều người.
Ông cố vấn với uy tín của mình, nguyên là một dân biểu, gần gũi Đức Cha khá nổi tiếng nên càng thêm uy tín hơn. Nhiều người đến với ông ngoài thời sự, chính trị, kinh tế... 
Bây giờ trong bối cảnh đặc biệt của đất nước, Đức cha đi tù, họ càng đến với ông một cách kín đáo và đặt trọn niềm tin hơn nữa.
Trong hoàn cảnh ai cũng muốn rời khỏi quê hương, nên lá số nào cũng nhắm vào đường xuất ngoại, thế rồi từ đó ông gặp vô số người nói thật về chuyện của mình. Người nào cũng đã có quyết định, cho dù có chết trên biển cả, nhưng ai cũng muốn có tâm lý bình an lúc ra đi. Họ cần một lời nói, sự xác nhận bình yên từ nơi ông để được an tâm. Nhờ cuộc sống thanh đạm, ông càng được nhiều người ủy thác, là chỗ dựa của các phán đoán đến quyết định. Các thuyền nhân mang vàng bạc đến nhờ ông cất giữ trước khi ra đi, hoặc chỉ trao trả khi chuyến đi thành công. Các Linh mục quen biết nhờ ông giới thiệu các chuyến đi vì có quá nhiều chuyện lừa đảo trong vấn đề người vượt biển… Các con chiên tin tưởng các Cha và ông Cố vấn ngẫu nhiên trở thành đầu mối của các tổ chức đưa người ra nước ngoài.
Thiện Nam đến gặp ông, con một người bạn cũ, nên chàng được tiếp đón vồn vã, không ngại ngùng gì cả về sự bảo mật và câu chuyện được mở ra một cách dễ dàng.
- Cháu muốn ra đi, Bác giúp - Chàng nói. 
- Thế cậu có biết viên thuyền trưởng nào cùng ý muốn hay không?
- Thưa vâng… và anh ấy có cả một cái la bàn nữa.
- Tốt quá, nhưng điều kiện?
- Thưa cả gia đình anh ấy cùng đi.
 Các chuyến vượt biển đã hình thành một cách dễ dàng như một hệ thống vệ tinh được lắp ráp lại, nhờ ông là đầu mối mọi câu chuyện: từ khâu bến bãi, chủ ghe, thuyền trưởng, tài công đến các thuyền nhân và khó nhất vẫn là khâu quyên góp tiền bạc. Bây giờ ông Cố vấn đã trở thành chỗ dựa cho một thứ luật pháp bất thành văn vô hình nầy.
Từ Sài Gòn đến các thành phố biển không xa lắm, một chuyến ra đi sắp xảy ra trên bãi tắm Vũng tàu. Từ sáng sớm , có vị Linh mục đưa tiễn con chiên của mình gồm toàn thanh niên thiếu nữ, thật cảm động ông nói lời tạm biệt với mỗi người và câu nói chúc lành cuối cùng khiến ai đó mãi không quên: -Tôi sẽ dâng lễ ngay sáng nay để cầu nguyện xin bình an đến với anh em...
Trong nhiều ngày trước đó đã có bao nhiêu buổi tiệc gia đình, mỗi bữa cơm đều mang nhiều ý nghĩa: cảnh đoàn tụ gia đình trước khi chia tay, sự gặp gỡ làm quen với người đưa đường, ông Cố vấn thường đều có mặt trong những lần tiếp xúc nầy vì vai trò của ông đã trở thành linh hồn các chuyến đi. Bên cạnh các chuyến đi, người ta còn trao đổi mua bán các ghe thuyền và phụ kiện.
Chuyến tàu chiều nay ước chừng lên đến cả trăm người này tất cả đều từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng họ đã tập trung tại bãi biển Vũng Tàu dưới mọi hình thức: người tắm biển hoặc hóng gió mát và ngủ, kẻ lên Chùa viếng Phật, người thăm quan tượng đài Đức Mẹ, Đức Kitô Vua… Vào cuối chiều sẽ có một chiếc xe buýt hiệu Rồng vàng rước họ theo những địa điểm đã hẹn trước.
Sau một ngày vất vả, vì ai cũng muốn đến địa điểm sớm khỏi nhỡ chuyến đi, với biết bao lo toan, cảnh giác trong thời gian chờ đợi vì đây là giai đoạn cao điểm của phong trào bỏ nước ra đi, nên công an biên phòng cũng rải đầy khắp trên các vùng ven biển. Giờ hẹn đã đến, ai cũng mừng, nhưng rồi khoảnh khắc hy vọng ấy đã không bao giờ đến. Chiếc xe Rồng vàng mà mỗi người như thuộc nằm lòng về hình dáng đã được mô tả trước, cả về nhãn hiệu màu sắc… đã không bao giờ đến.
Một khắc qua đi, rồi ba mươi phút… mọi người hiểu được vấn đề và ai nấy đều nhanh chân chạy về thành phố. Một vài cá nhân thuộc nhóm chủ ghe đến vòi tiền bạc… một điều cũng khác thường trong các giao ước trước đó và không ai làm điều như thế. 
Chuyến đi gồm toàn giới trẻ, Thiện Nam có mặt trong số đó, và chàng quyết định chung với nhiều người: trở về thôi. Không ai rõ lý do gì, người ta chỉ biết rằng, mình đã quá tin ông Cha xứ, ông Cha xứ lại vững tin vào ông Cố vấn sắp xếp và cả ông Trùm xác tín mọi chuyện nữa. Tôi tin, tôi tin... Ông Cố vấn thì chưa bao giờ lên thực tế một chiếc ghe thuyền nào, ông chỉ được nghe, được tin qua những người đã đến và gởi sự ký thác qua ông… với lá số người nào cũng có ít nhiều thuận lợi ở cung dịch chuyển.
Đêm khuya hôm ấy, họ trở về được đến Kinh đô cũ và bằng mọi cách gặp Cha xứ để báo cho Ngài biết cùng tìm rõ nguyên do: “Bình an cho các con”... Đó là lời nguyện thật lòng của ông, và ông nói tiếp: “Sáng mai trong Thánh lễ sớm nhất Cha sẽ dâng lễ Tạ ơn cho các con”. Mọi người qua một cơn thất kinh, mệt nhọc, nhưng may mắn không mất tiền của và người, không phải vào tù vì tội trốn ra nước ngoài. Họ chỉ mất lộ phí cho sự cả tin của mình.

VI
TA LÀ KẺ CỨU NGƯỜI 
  
Mọi người đã lên thuyền nhưng đây mới chỉ là các ghe nhỏ, nhiều giờ chờ đợi trôi qua... canh một, canh hai, đêm sắp tàn, nhưng không ai nhìn thấy con tàu lớn sẽ thật sự đưa họ lên đường.
Những chặng đường dài trong khâu tổ chức… Với ý chí quyết tâm, các thuyền nhân mới rời bến bãi một cách an toàn. Nhưng giờ đây giữa biển khơi họ không thấy cái gọi là ghe mẹ đâu cả, không khí thật nặng nề đã bao trùm lên chiếc thuyền con, sự kiên nhẫn dồn nén đến cao độ khiến có thể làm vỡ tung cả chiếc ghe bé nhỏ với bất cứ lý do nào.
Trên chiếc ghe thứ nhất, có khoảng ba chục thuyền nhân, chủ ghe đã thu hết vàng bạc và khi có sự kêu la trên tàu… y đã thề nguyền sống chết cùng anh em và trích máu ra xin thề sẽ hy sinh chết trước nếu không có thuyền lớn đến đón, y nói: -Tôi chỉ là một kẻ cứu người, từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa biết làm điều thiện và cũng chưa bao giờ làm điều ác... lẽ nào lần nầy lại bị lừa đến mức nầy, ông khóc lóc thảm thiết và nguyện xin chết trước anh em.
Nghe xong, ai cũng sợ ông tự tử vì việc đó xảy ra sẽ làm mất manh mối về số vàng bạc đã đóng cho y. Và cuối cùng không ai ngăn ông được, chủ ghe đã nhảy xuống biển gọi là chết thay cho anh em? Không ai biết ông sẽ về đâu, người ta chỉ biết rõ y có thể lặn rất sâu và bơi rất giỏi… Các thuyền nhân lục khắp trên ghe nhưng mọi sự đã muộn, vàng bạc đã biến mất theo ông.
 
* * 

Trên chiếc ghe thứ hai, cũng chừng ấy hành khách, sau những giờ hồi hộp, các thuyền nhân đã linh cảm được chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng đặc biệt ở đây các chủ ghe đã nói rõ sự thật với mọi người: - Thế là thật đáng tiếc chúng ta đã bị lừa… Và một trong bọn họ - những người tổ chức, đeo kính trắng trông có vẻ học thức thêm vào: Chúng ta biết phải làm gì rồi, bây giờ không còn là  What to do, song là How to do... phải biết cách thực hiện giải quyết vấn đề như thế nào… này...  hãy cùng nhau tìm cách vào bờ một cách an toàn, và rồi các chủ ghe nầy chỉ xin tiền đưa đón, xăng dầu.
Người ta được biết họ đã đưa các thuyền nhân lên bờ về nhà cũng giống như họ đã rước ra khơi đến độ an toàn tuyệt đối trong khâu tổ chức.
 
* *

Một chiếc ghe khác, vì sự ăn chia không đồng đều giữa những người tổ chức, tạo nên sự mâu thuẫn đến hỗn loạn. Do đó, các thuyền nhân biết được ngay: đây là tổ chức chuyên lừa đảo người vượt biển. Tất cả nổi loạn và bị trấn áp. Chủ ghe âm thầm chuyển tay lái về phía gần bờ, ẩu đả đã xảy ra, nhưng các thuyền nhân đều muốn trở về nhà an toàn, nên dù có mất của xin đừng mất người. Khi con thuyền cách bờ khoảng năm mươi mét, rồi từ từ gần hơn, họ lần lượt nhảy xuống và bơi vào bờ, phụ nữ và trẻ em được dẫn dắt tận bờ. Họ ngồi nghỉ trên một bãi đá đầy san hô, có sóng biển lăn tăn vỗ đều trong sương lạnh. Họ lên bờ uể oải và gần đó có một ngôi Chùa toạ lạc trên ngọn đồi nhỏ, với tay bồng tay bế, các phụ nữ nầy đã chạy vào ngôi Chùa xin tá túc đến sáng mai như khách hành hương rời khỏi Chùa… Cánh cổng Chùa đóng kín, có tiếng chân chạy ra của một Sư cụ thức dậy sớm: - Xin lạy các bà để cho chúng tôi tu hành… Cánh cửa vẫn khép kín sau nhiều lần bái lạy lẫn nhau giữa các phụ nữ và Nhà sư cao tuổi. 
Họ lại ra đi khi trời chưa hừng sáng, thật mạo hiểm, vì du kích quân vẫn thường tuần tra suốt đêm, họ bước nhanh qua nhiều căn nhà dọc ven bờ biển, nhiều nhà có Thánh giá trước cổng, nhưng tất cả đều khóa chặt cửa. Trong các căn nhà họ không nhận ra có ánh đèn… Họ chạy vội cứ theo con lộ chính theo hướng ra đường cái quang. Trời vẫn chưa sáng, nhiều toán phụ nữ vẫn tiếp tục hành trình, thỉnh thoảng có đôi người quá mệt liền tách vào một vài căn nhà không có cổng, họ lại gặp may, các chủ nhà mở cửa với chiếc đèn dầu nhỏ và cho thức uống…Thiện Nam có mặt trong số những người chạy tìm chỗ ẩn nấp nầy, họ đã móc nối với nhau từ những chuyến thất bại vừa qua. Chàng liếc nhìn vào bên trong: cuốn Kinh Thánh giữa bàn… có lẽ họ đang ngồi ở đó chuẩn bị cho một ngày mới. 
Họ đón xe dễ dàng theo chân những người đi chợ sớm, Thiện Nam quá giang theo một em học sinh, từ căn nhà chàng tránh vào; như quen thuộc với từng khuôn mặt trên làng biển nầy, cậu bé hỏi: - Chú vượt biển phải không? Chú có đọc Quo va dis chưa? Cháu chỉ nghe kể lại… Cháu sẽ đón xe cho Chú.
Chuyến xe đã chạy xa, bỏ lại cậu bé trai với chiếc xe đạp cũ kỹ… “Ở đây có kẻ đi sông cũng bị bắt ép lên ghe vì tổ chức muốn bảo vệ an toàn tuyệt đối cho chuyến đi và kẻ đi hôi nhiều vô kể… Nhưng cháu… Không…Không”. Thiện Nam nhìn lại, cậu bé cũng dõi mắt nhìn theo, biết đâu nó thật vui sướng vì đã gợi nhớ một điều nào đó theo nó là tốt: “Con chạy đi đâu… và Thầy luôn ở cùng các con”.  




VII
NGƯỜI TIỀU PHU 
      
Biển và rừng Cà ná, rừng thoa thỏa dọc theo ven biển nơi đây, biển cách rừng qua con lộ chạy xuyên cả nước, rừng với biển như quyện vào nhau tạo nên một vùng sinh thái có khí hậu nhiệt đới, gió rừng mang theo hơi nước của biển  thuộc duyên hải miền Trung nầy.
Xa xa, những cánh đồng ruộng muối bát ngát với hương vị riêng Cà ná, mà mỗi người Việt Nam khi nghe đến đều nhớ tới hương vị thật mặn của nó.
Sự xuất hiện đột ngột của lão Chu tại vùng biển nầy, không ai nghĩ ông lão đi săn hay sẽ chài lưới, chính ông cũng không biết. Ông đến thăm một người bạn cũ dưới mái trường xưa, song cũng là người được ông cứu mạng nhiều lần lúc đương quyền…Vì người bạn nầy hoạt động bí mật cho phe bên kia và từng là một nhà tình báo chiến lược.
Khi bếp lửa được thổi lên để chuẩn bị pha trà, những thanh trúc khô nổ lách tách. Họ cười nói với nhau, ông lão cách mạng mở lời trước: -Tôi đã từng ở rừng và nay trở lại với rừng, nhưng bây giờ biết bó củi thật chặt hơn. Ông tiếp: đêm nay chúng ta sẽ đi săn và trở về uống rượu nếp than với thú rừng.
Cả hai uống trà và dùng các món ăn nhẹ, khi chiều xuống họ lên đường. Lão Chu hỏi người bạn già: Bác đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ hành trang chưa… Ông lão trả lời một cách sảng khoái: kẻ đi săn chuyên nghiệp là kẻ không phải mang gì hết… Tôi chỉ có một túi xách để nhốt chúng, và cái ống tiêu để thổi lên thứ ngôn ngữ riêng của mỗi loài thú mà ta muốn đánh chúng vào mẻ lưới của mình... à... một cái đèn pin nữa để phân biệt tối sáng và anh sẽ không lạ ở đây họ hay gọi tôi là ông lão tiều phu… Lão Chu cười: à tôi hiểu, người giỏi thắng không cần phải đánh, chỉ cần bày binh bố trận là đã thắng.
Khi đến mé rừng, ông bắt đầu chỉ chỗ cho lão Chu gỡ những con thú rừng như thỏ, sóc, chuột, chồn… đã bị dính bẫy và người tiều phu nhẹ nhàng, âm thầm đặt tiếp các bẫy khác. Lão Chu để ý các thứ mồi đều có mùi thơm của hương vị bột đặc biệt.
Sau khi đã nhặt nhiều thú rừng bị bẫy, Lão Chu đề nghị: thôi thế là đủ cho chúng ta trở về. Nhưng người tiều phu cười bảo: chúng ta chỉ được hưởng chưa đầy phân nửa của những gì mình đã thu hoạch, nó là thế và đó cũng là niềm vui trong sự chia sẻ với mọi người. Nhưng niềm vui đích thực của chúng ta không phải là các thứ mồi ngon ấy, song là… đã có bao nhiêu những con thú vì nghe nhầm mà sụp bẫy…
Họ lại tiếp tục đi sâu vào rừng, bước chân người tiều phu như đã quá quen trên các lối mòn nầy dù là vào ban đêm. Còn lão Chu sau những năm lao cải ở các trại tập trung, nay cũng trở nên biết chịu đựng với gió sương, nhất là lão đang có một kế họach muốn đề nghị để thoát thân tại vùng biển nầy, nên càng không thấy mệt mỏi khi phải leo dốc nhiều. 
Bác tiều phu luôn vui vẻ, trông ông thật thanh thoát, trong nhịp thở như luôn có tiếng hát trên bước chân không mệt mỏi của ông:... Khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải sang cho phẳng… và ông nhớ lại ký ức của một thời: Từ nay ta sẽ lưới người như bắt cá bắt chim.
Cả hai cùng ngồi nghỉ trên một bãi rộng giữa khu rừng, họ uống rượu nếp than cho người ấm lên khi đêm về khuya dưới thời tiết trở lạnh giữa rừng. Người tiều phu lại đứng lên và giăng tiếp những mẻ lưới để đánh bắt chim, lão Chu đặc biệt theo dõi và  làm theo sự chỉ dẫn của người bạn già… Ông chăm chú cẩn thận các góc lưới rồi cắm chúng thật chặt... Và từ tâm hồn như muốn thoát ra thứ tiếng lòng: Ta thổi cho các ngươi nghe và các ngươi sẽ nhảy múa... tiếng sáo của ta là tiếng lòng yêu nước và đặc biệt là âm điệu giành cho loài chim quốc quốc.
Quả thật khi người tiều phu thổi lên thứ âm điệu phỏng theo tự nhiên nầy, đó là tiếng kêu của loài chim quốc quốc gọi nhau, tiếng kêu tập họp kết đoàn, khiến chúng qui tụ lại bên nhau trong mẻ lưới của ông.
Những con quốc lần lượt, một con, vài con và rồi từng đàn bay về bên tiếng gọi đàn, có con tung dính vào lưới trước khi cả đàn bị sập bẫy. Thế rồi những đàn chim càng lúc đổ về nhiều hơn, người tiều phu nói: -Thôi ta dừng. Lão Chu thầm nghĩ: Nó nhiều quá, làm cách nào để kham cho nỗi, đàng khác lại thấy tiếc những con mồi được tha, từ khi ở các trại tập trung trở về, ông thấy cái gì bỏ đi cũng tiếc, ông từng bị giam giữ ở tận các vùng sâu núi cao và vào giữa tiết đông một miếng giẻ rách cũng quí biết bao.
- Thôi ta dừng - Bác tiều phu nói với người bạn, nhưng thật sự là một thái độ với chính mình: Ta nên kiềm chế và phải vượt qua, phải chiến thắng được lòng tham vô đáy của con người nơi chính mình… Ta phải biết dừng lại đúng lúc, chính yếu tố đó đã làm cho ta tồn tại đến hôm nay. Ta đã đi trên mọi nẻo đường với nhiều bạn hữu, nhưng phần lớn đã mãi mãi sớm đi xa vì hầu như không ai muốn dừng lại, hay có muốn dừng lại cũng bị cái không chịu dừng, gọi là bánh xe lịch sử kéo lê đi… Nào ! Kẻ chiến thắng thật sự phải là người tự thắng chính mình.
Người  tiều phu đã cười  thích chí trong ý nghĩ của mình và không buồn gỡ hết những con mồi, ông nhặt lên từng con và bỏ vào giỏ, những con càng vùng vẫy lại càng luống sâu vào bẫy của ông, mỗi một con được cầm trong tay như mang lại niềm phấn chấn hơn nữa: có một điều gì đó mà ông muốn nói với chúng, từ miệng người tiều phu thỉnh thoảng lão Chu nghe rất rõ:... vùng vẫy, vùng vẫy... đừng có dại nghe con, chớ có tai mà cái gì cũng nghe, chớ có nghe mà không phân biệt được tiếng nào cũng là tiếng quốc... Yêu nước, yêu nước, đừng có dại nghe con.
Quốc trong tiếng Việt có nghĩa là nước. Ở đây nó mang nghĩa bóng là kêu gọi lòng yêu nước và bao con chim đã chết, sa lưới vì tiếng gọi nầy.
 
* *

Họ trở về, đêm đã về khuya, cả hai đều đi qua căn chòi công an biên phòng bên bờ biển, và như thường lệ người tiều phu biếu cho họ vài con chim quốc và các loại thú rừng khác để nấu cháo ăn khuya. Đối với các cư dân địa phương, ông là một nhà cách mạng tuổi cao về ẩn dật, nên không ai để ý các hành vi của ông. Họ hoàn toàn tin tưởng vào các việc làm của ông lão là đúng với chủ trương đường lối.
Người tiều phu giới thiệu với các anh công an biên phòng về người bạn cùng đi với ông, họ vẫn tưởng là một nhà cách mạng khác và được mời mọc rất chân tình vào viếng nơi các đồn bót của anh em. 
Họ được mời ngồi trên chiếc ghế gỗ giữa nhà, có một bàn nhỏ, trong căn chòi có đủ mùi pha lẫn: mùi cá khô, thuốc lá đang phơi dọc trên vách theo từng lớp từ trên xuống, và bên trên trần nhà đầy cá mực các loại. Phía đầu nằm của mỗi chiếc giường tre cá nhân có đủ thứ quần áo và khăn vắt trên đầu nằm, cuối chân giường là bàn chải đánh răng, chén bát lãnh cơm canh cá… và dưới gầm giường đầy xoong chảo, các loại lương thực khô như khoai lang, khoai mì...
Lão Chu quan sát thật kỹ, dù là ban đêm với chiếc đèn dầu. Ông chỉ nói lời khen: Anh em tinh thần thật cao, dù khó khăn gian khổ vẫn cố gắng vượt qua để bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải. Và sau cuộc nói chuyện về hoàn cảnh gia đình, ông biết họ rất khó khăn thật sự, cái nghèo đang đeo đuổi bọn chúng… mực khô, cá khô, thuốc lá khô kia sẽ được tích lũy dần và gởi về gia đình.
Cả hai chào từ biệt ra về, lão Chu nhìn lại căn chòi một lần nữa với nhiều suy nghĩ: Ta sẽ tẩy rửa chúng bằng lửa... Các anh công an biên phòng rất nồng hậu với họ và mong sớm gặp lại, vì ai cũng sẽ có bữa bồi dưỡng cháo quốc về khuya.
Bác tiều phu cũng phân phát cho những người láng giềng, ai nấy đều khen ông là người thật có tài và đức. Ông vốn rất coi trọng công tác quần chúng, vì với ông: “Đốm lửa có thể đỏ rừng”.
Lão Chu đã nói hết nỗi lòng của mình với người tiều phu và họ hẹn nhau vào một ngày sẽ trở lại. Không biết hai người bạn cố tri đã bàn với nhau những gì, song có tiếng nói rõ trầm nhỏ đầy lạc quan của người tiều phu: - Đó là chuyện nhỏ...
Sau một thời gian ngắn, lão Chu trở lại, với khuôn mặt của con người luôn trầm tư, thích nói nhiều khi có mục đích, đã từng cam chịu nhiều khổ đau, đang bị quản chế, công an du kích địa phương luôn dõi theo từng bước chân, ông có thể bị sát hại, bị giết chết, thậm chí thủ tiêu bất cứ lúc nào.
Đêm hẹn hôm đó, họ cũng đi săn, nhưng về muộn hơn. Các anh công an biên phòng vẫn quen chờ đợi bác tiều phu, song quá khuya nên họ cũng có phần mệt mỏi. Như thường lệ, khi đi ngang qua chòi của công an biên phòng, người tiều phu ném vào cho chúng vài xâu chim quốc và ông gọi lớn thật vui: - Hãy nấu cháo mà ăn, hãy nấu cháo mà ăn rồi đi ngay.
Tối nay cũng vậy, nhưng người bạn già của ông đã ném thêm mẫu tàn thuốc của cả hai ông trước khi rời xa... Đi được một khoảng xa họ nhìn lại, căn chòi đã ngún khói và ngọn lửa bắt đầu bốc lên... gió biển hoà với gió rừng mùa khô đã đưa ngọn lửa bỗng chốc ngùn ngụt như ngọn đuốc lớn tỏa trên vùng biển nầy.
Vào lúc đó, theo đúng giờ hẹn, khách thăm quan vùng kinh tế mới trên một chuyến xe buýt có biểu ngữ và cờ xí chung quanh… đã chạy từ từ trong đêm đến gần bãi đáp... Tất cả lên ghe an toàn vì giờ đây theo sự phán đoán của lão Chu và người tiều phu: do quá nghèo nên chúng sẽ tiếc rẻ mọi thứ mà lo chữa cháy, cứu chòi.
Con tàu xuôi thuyền ra biển khơi, chiếc xe buýt theo dự tính sẽ trở về, nhưng cả tài chính, tài phụ đều có quyết định cuối cùng: ra đi luôn, nên chiếc xe bị bỏ lại nằm ụ trên bờ phó mặc.
 
* *
     
Biển yên, gió lặng... Con tàu lướt sóng nhanh, các thuyền nhân tin tưởng, hy vọng sẽ đến được bến bờ nơi trời mới, đất mới đầy cảm động... nhưng trời bỗng đổ cơn dông, sấm sét... ở cuối chân trời một màu đỏ sậm đến màu tím lạnh như màu nước biển… rồi tất cả tối tăm.
Đã hai ngày trôi qua, ai cũng mệt lã, họ mất tinh thần, cộng thêm vào say sóng, ói mửa, không còn ai đủ sức để tát nước ra khỏi thuyền mỗi khi có sóng lớn ập vào thuyền và con tàu đến lúc gần như muốn vỡ toang ra từng mảnh.
Các tài công giàu kinh nghiệm trên tàu nầy biết rằng, nếu cứ trôi sẽ đi vào vùng biển đầy nguy hiểm của khu vực. Họ quyết định trở vào bờ theo hướng gió nồm... Cũng bằng với thời gian ra khơi, con tàu đã tiến vào đến gần bờ, thế là hơn một tuần lễ, khi ghe cập vào cách bờ không xa lắm các phao cứu hộ được phân phát và lão Chu quyết định vì sự an toàn tuyệt đối sẽ phi tang con tàu. Con tàu đã bị đập tan ra thành từng mảnh và các thuyền nhân theo từng toán vào bờ... Ai cũng kiệt sức, nhưng sợ bị bắt nên đều cố sức một lần cuối hầu thoát thân an toàn trở về gia đình.
Lão Chu đã lên bờ và thoát khỏi vùng biển nầy một cách an toàn, ông đã bắn tin cho người bạn cũ, người tiều phu dường như đã có linh cảm về những gì sẽ xảy ra… trong cuộc đời làm tình báo của ông, giác quan thứ sáu, nhất là bản năng sinh tồn nơi ông rất mạnh mẽ. Ông đã tiên liệu mọi chuyện vì nguyên lý: tiến khó một mà rút khó mười... Mỗi sự việc xảy ra ông đều nhận ra đâu là yếu tính của vấn đề, ông đã làm được việc trả ơn cho người bạn đã từng cứu ông thoát chết mà ông nghĩ sẽ không bao giờ trả được. Lão Chu đã từng là trưởng cảnh sát của một vùng và khi đó công việc tình báo của người tiều phu bị bại lộ, phải vào tù... Lão Chu vì tình bạn học ngày xưa đã cứu ông bằng cách tổ chức cho nhà cách mạng trốn trại.
Khi được tin, người tiều phu bình tĩnh, với một túi xách nhỏ, ông vẫy tay đón chuyến xe sớm nhất, Ông quyết định đi về miền Sơn cước. Khi mọi người trên xe vẫn còn ngái ngủ,  miệng ông như muốn thốt lên điều gì đó dù thật nhỏ: Hỏng cả rồi... ăn cướp mà đền ơn. Ta có thể điều chỉnh được mọi thứ quanh ta và kiềm chế chính mình, nhưng cái thứ di truyền nầy vẫn vậy - nó là thế ấy. 
Rừng và biển đang lùi dần phía sau, song như có ai theo dõi, ông cố nhìn thật kỹ: căn chòi công an biên phòng giờ đây chỉ còn là một đống tro tàn, vài chiếc cột nhà cháy dỡ chừng càng trở nên trơ trụi.
Biển Đông vẫn yên tĩnh, có cơn gió lùa ban mai luồn qua cửa kính làm ông se lạnh, người tiều phu cúi xuống lấy tay cài áo cổ, ông nhìn vào chiếc khuy, rồi nhìn vào lòng mình: phải thật cảnh giác, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và ma quỷ cũng vậy.
     Chuyến xe lao nhanh sau mỗi lần đón khách, rừng khuất dần trong ánh mắt đầy sự luyến tiếc của người tiều phu: Từ đây ta sẽ không còn độc quyền trên khu rừng nầy nữa.     
 



VIII
TA CÓ TOÀN QUYỀN
      
Thiện Nam đã trải qua nhiều chuyến đi nhưng đều thất bại. Chàng cảm nghiệm được phần nào túi tham không đáy của con người, nhiều khi dục vọng đã đánh mất chính mình. Các tổ chức phần lớn bị đổ vỡ đến tổn thất vô cùng vì một khi lòng tham càng lớn thì càng mất mát lớn.
Bây giờ chàng đã quen với vô số các tổ chức trốn ra nước ngoài, nhưng hơn hết vẫn là chính mình vào cuộc, qua một đường dây có bảo hộ của công an, chàng trực tiếp đến nhà viên Viện trưởng Viện kiểm sát của toàn vùng với sự đưa đường của một người gọi là ân nhân của các chuyến đi trước đây.
Sau mấy lời giới thiệu, Trần Xuân nhận ra ngay vấn đề, Ngài Viện trưởng đi ngay một mạch những gì phải biết để tin  rồi tiến hành, còn hy vọng là của riêng mỗi người: càng đặt cọc lớn càng hy vọng nhiều.
Trần Xuân cười nói một cách trân trọng: -Tôi là kẻ cứu người, tôi đã cứu biết bao người rồi, cũng không ai hay mình có thể làm được điều đó cho đến khi mọi thứ đã thật sự xảy ra. Tôi có toàn quyền trên vùng bán đảo nầy… Ở đây không có nghị quyết, sắc luật, sắc lệnh hay Quốc hội gì hết, nhưng mọi sự tốt đẹp hơn cả. Y chỉ tay về phía vùng Vịnh và nói tiếp: -Các anh muốn ra đi bao nhiêu người? Muốn được bảo vệ để tránh hỗn loạn lúc lên tàu hay muốn ta bỏ trống bến bãi mà tự tổ chức... Và điều quan trọng: làm chuyện lớn phải có lòng nhân, chớ tham của người, các thuyền nhân thường có nhiều gái đẹp nên chớ vì tửu sắc... ở đây mọi thứ đã có giá cả rồi, cứ nộp đủ rồi lên đường. Không đi được tôi sẽ trả lại, xưa nay Trần Xuân nầy chưa bội tín với ai. Y cười lớn và nhìn vào những người chung quanh để xác tín điều đó đã xảy ra đúng như vậy: không thành công cũng thành nhân.
Thiện Nam không mặc cả, chàng chỉ nhận định: mình đã gặp được thứ biết việc hắn đang làm dù là làm bậy và thế gian -nó đã là thế, mà phàm xưa nay chuyện bí mật thì thiên về bá đạo hơn là vương đạo. Trong thâm tâm ước nguyện của chàng là làm thế nào càng đơn giản càng tốt, chuyện bí mật tay phải làm tay trái đừng biết càng hay, như trên vùng vịnh chiều nay vừa xảy ra, khi ngày sắp tàn người ta nhận ra khoảng hơn hai chục chiếc xe đạp bỏ lại trên bờ… ai cũng nghĩ là của học sinh tắm biển… nhưng các bạn trẻ nầy đã không bao giờ trở lại. Tất cả đều tốn rất ít vì ai nấy cùng một quyết tâm lên đường.
Sau khi thoả thuận và đặt tiền cọc, Thiện Nam đựợc ở luôn trong nhà Ngài Viện trưởng cho đến ngày xuất hành. Chàng nhận ra có nhiều thanh niên cũng trong tình trạng như thế. Các viên chức ở đây thường gởi theo vài người trong các chuyến đi, chính những người nầy - gọi là cải thiện.
Mọi nẻo đường dẫn đến một chuyến đi đã sớm hình thành… nhưng thế gian phải thấy mới tin, nên các thuyền nhân được đưa đến thăm quan nhà Ngài Viện trưởng một cách kín đáo: có bảng vàng phía trước nhà, và tất nhiên phải là người có hầu bao rộng rãi. Hình như sau đó, người nào cũng cùng suy nghĩ: Ta đã gặp, đã thấy… thật đáng tin cậy, có lẽ sẽ không còn cơ hội nào tốt hơn.
Chàng cũng đưa một vài đại diện các thuyền nhân đi thực tế, khi đến nơi ai cũng nói nhỏ với chàng: đúng là nhà của một viên bí thư rồi... và ai cũng đặt câu hỏi: Tại sao, tại sao từ tên du kích đến hết thảy những ai trong bộ máy chuyên chế ấy đều có toàn quyền.
Tại căn nhà số hai, Thiện Nam được tiếp xúc với y nhiều lần, thỉnh thoảng Trần Xuân chỉ ghé về vào dịp thuận tiện và ra đi, y học ngành tình báo cùng cao cấp chính trị tại Liên Xô, có cảm tình đặc biệt với chàng và thường hay nói: -Ông yên tâm, không có chủ trương, chính sách… bố tôi sống lại cũng không dám làm, thân sinh y là một chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp có bằng liệt sĩ. Chàng tỏ ra ái ngại về các chuyến hồi hương của người Hoa đã bị nổ tung trên biển… Trần Xuân mỉm cười: các ông hãy yên tâm, các ông là người Việt và trong các chuyến đi chúng tôi đều có gởi theo vài người thông qua tổ chức… Do đó không thể hy sinh được.
Trong những trường hợp như thế, y biết mình đã quá lời để minh chứng về một điều gì đó mà tạo niềm tin. Y tiếp: à, nó là những vấn đề bí mật quốc gia… và chương trình của chúng ta là ở chỗ khác. Thiện Nam thỉnh thoảng đọc sách tướng mệnh và hay có cái nhìn thẳng vào người đối thoại: Trần Xuân có nước da bánh mật rất tốt, mắt sáng, khuôn mặt chữ điền và luôn liếc nhìn quanh vẻ đa nghi, phía mắt trái có một đốm mây máu đỏ.  
 
IX
TRẠNG CÓ CHẾT 
      
Các chuyến đi tổ chức qui mô lần nầy thất bại “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên” và việc “ta có toàn quyền” cũng chỉ là toàn quyền trong cái giới hạn. Trại giam thuộc vùng bán đảo nầy không còn chỗ chứa nữa, các tù nhân mới phải phơi nắng giữa trời. Khoảng sân rộng của công an toàn vùng biến thành trại giam và công việc thanh lọc được bắt đầu. Phụ nữ cùng trẻ em được thả trước, lần lượt đến những người cao tuổi theo sau…Tất cả đàn ông đều bị giữ lại vì “tính chất nghiêm trọng của vụ án”, theo tuyên bố của một viên chức cũng tự giới thiệu: -Tôi có toàn quyền quyết định trong vụ án nầy.
Những chiếc xe đưa đón các thuyền nhân phần lớn thuộc sở hữu của nhà nước, do các viên chức đánh cắp để mang gia đình ra đi... đang nằm ụ ngổn ngang giữa bãi sân. Còn các thuyền nhân khác hầu hết được chứa trong nhà của các cán bộ chủ chốt địa phương. Công an còn đạo diễn: giả tổ chức vượt biển rồi bị bắt, bị nhốt trong trại tạm giam của huyện, đến giờ hẹn, họ được các xe còi hụ đưa tiễn xuống tận ghe gọi là chuyển trại.
Cho dù các xe có hộ tống, nhưng dân chúng vẫn không chịu tránh xa, họ lại chạy theo, nhất là các cư dân ở vùng lân cận khi được bén tin đã nhanh chóng đổ xô về đây để ăn hôi nhiều vô kể. Cả vùng Vịnh vào buổi chiều sắp tàn ấy náo động lên và thế là thất bại, không ai lên ghe được giữa biển người như đang hành hương đến vùng Thánh địa... hay các loài đến thời kỳ từng đoàn đổ ra biển tự sát... Thế rồi đã có tiếng súng nổ trên bến cảng của vùng Vịnh, một thứ ngòi nổ mà Thiện Nam đã có thể dự đoán về điều nầy, nhưng giờ đây chàng đã leo lưng cọp, đó là các mâu thuẩn bên trong giữa các chuyến đi chính thức và không chính thức, giữa địa phương và trung ương, nhất là tính không nhất quán của một thứ nhà nước có chủ trương mà không có chính sách thực tế cụ thể.
Không ai chịu giải tán, vì họ đã quá quen với kiểu trấn áp bắn chỉ thiên để ăn hối lộ của công an, du kích địa phương... Đến khi các tiếng nổ rền vang liên hồi và có sự đàn áp thật sự, cũng không ai tin, họ vẫn tưởng bọn cướp biển hoành hành để hôi của… hiện trường đầy tiếng khóc than nhất là tiếng la của người mất mát tài sản.
Người ta cũng thấy Trần Xuân có xe hộ tống phóng nhanh, đang chỉ huy việc trấn áp giải tán. Đêm đã về khuya, thật khuya, những con đường dẫn ra bến cảng bây giờ trở nên vắng lặng như đã có một quả bom thật nặng ký nào đó đã đổ xuống mang đến niềm sợ hãi vô cùng: Tất cả những ai chưa chịu về nhà và còn trên dọc đường đều bị tống vào trại giam...
- Hỏng cả rồi, rách việc cả rồi... Trần Xuân nói. Và ta có quyền tha thì ta cũng có quyền buộc, ở đây ta có đủ quyền.
Sáng hôm sau với tư cách là Viện trưởng Viện kiểm sát, Trần Xuân đã đứng ra ký giấy tha lần lượt cho các tù nhân mới. Và người ta cũng được biết vào chiều hôm ấy, y đã bị bắt giải về trung ương. Trên chiếc xe bịt bùng, có còi hụ, những người áp tải thỉnh thoảng nghe rõ thật nhỏ tiếng lầm bầm của ông: Trạng có chết thì Trẫm cũng băng hà. 
 
X
ADAM & EVA
      
Thiện Nam bị bắt. Chàng bị tống vào một phòng giam tập thể. Cánh cửa vừa đóng sập lại, tiếng thanh sắt rít lên, một thế giới hoàn toàn Adam hơn cả các Adam vì Adam bây giờ có cả việc xâm đầy mình hiện ra trước mắt chàng: hết thảy đều ở truồng với cả trăm con người trong căn phòng nhỏ.
Cảm giác đầu tiên chàng tưởng mình đang đứng một nơi nào đó có hơi ngạt, ngộp đến độ các tù nhân thấy từng hơi thở của nhau bốc ra và người nào cũng ướt đẫm mồ hôi… nhiệt độ chắc chắn không dưới 400 C.
Chàng được lệnh của người trưởng phòng cũng là một tù nhân, thường đã ở lâu và  được bọn cai tù tin tưởng: -Hãy cởi 
quần áo ra... Thiện Nam ghi nhớ từ khi xuống xe vào cổng trại đến phòng giam nầy không biết đã bị khám xét đến mấy lần, nhưng lần nầy các tù nhân khám chàng kỹ hơn hết, không còn mảnh áo nào trên thân và những tay ăn chơi sành sỏi trắc nghiệm hỏi xem có bị lậu, giang mai, lao phổi hay không… nếu mắc phải sẽ được nằm một góc gần nhà vệ sinh. Chàng quan sát, mỗi người đều có một nửa cái gáo dừa mang trước dương vật để hứng mủ, nơi khám xét cũng sát bên họ và có mùi thật hôi tanh.
Lúc đầu chàng cũng thấy e thẹn, và rồi thấy ai cũng như thế, Thiện Nam bắt đầu quen dần. Các tù nhân cũng kháo với nhau, các nữ tù nhân ở phòng bên cũng thế... và theo những người phát cơm hằng ngày, phụ nữ còn thê thảm hơn khi điều kiện vệ sinh quá tồi tệ... chỉ có người đại diện ra lãnh cơm là khoác tấm áo. Có lẽ đến lúc  nào đó phàm hay siêu thoát đều không xem những thứ ấy là vấn đề.
Đã đến giờ học nội qui và trước đó cũng hát một vài bài quen thuộc, tiếp đến giờ lãnh cơm canh cá... Điệp khúc này cứ diễn ra, ngày nào ở các trại tạm giam vẫn thế. Một vài hôm, có khi suốt cả tuần ngồi họp về các vụ chia thức ăn không đồng đều, và chuyện đánh nhau hầu như nhiều hơn cơm bữa, như chuyện ở LHQ bàn về cứu đói, nạn nhân mãn, diệt chủng, môi trường...
Chuyện cơm canh cá là vấn đề thời sự mỗi ngày, cho dù các loa phóng thanh phát từ sáng sớm, trưa, chiều, tối với âm thanh lớn tối đa, hậu quả trong các căn phòng nhỏ đông người như thế này, không cần cải tạo thì các bộ não chống đối chế độ kia cũng bị tẩy não.
Phần cơm càng ít bao nhiêu, sự tranh giành nhau đến từng hạt cơm càng nhiều. Cơm cháy là thứ ân huệ, nó dùng để bồi dưỡng cho những ai làm việc nhiều trong phòng hay thuộc cánh hoàng gia thân trưởng phòng.
Những bữa cơm ngoài đời nhiều khi ngon miệng chúng ta ngồi cũng không quá vài giờ, nhưng ở đây có tù nhân ăn từng hạt cơm đến hết buổi, hết ngày... vì họ sợ hết cơm. Tiêu chuẩn mỗi người được vắt cơm bằng quả trứng vịt, đánh tơi ra nó là một chén nhỏ, và tất nhiên với nước muối là thức ăn chính, song dùng món này nhai kỹ ai cũng thấy ngọt.
Cuối tuần hoặc cuối tháng thường có tiêu chuẩn cá, nhưng thường là cá ươn đã nát bấy ra, còn thịt chỉ vào những ngày đại lễ.
Một bác sĩ tình nguyện chia cá cho anh em, mọi người rất tán đồng vì ai cũng nhận thấy rằng dù sao bác sĩ cũng vệ sinh, sạch sẽ hơn những người khác… Các tù nhân luôn dòm ngó ông trong sự kính trọng để bắt chước...  Sau mỗi lần chia cá xong, ông ngồi nhai hết số xương cá còn lại... Ông nói với họ: hãy nhai và nhai thật kỹ, hãy nhai cho có canxi, chúng ta đang thiếu chất ấy một cách trầm trọng… Hãy uống thức ăn và nhai thức uống.
Còn anh kỹ sư kia đến lượt mình chia cơm, nếu không tình nguyện thì luân phiên, khi chia xong anh nạo vét đến nồi bị thủng và hà tất phải bị mang ra kiểm điểm. Trong lần họp nầy có hai nhà tu cũng bị mang ra kiểm thảo vì được ra ngoài tạp dịch song gặp cây ớt và hái mấy trái… Trước các sự cố như thế, những người trí thức bị chửi rủa thậm tệ, có những thành phần bị mặc cảm gì đó được dịp tha hồ lên mặt đạo đức và anh kỹ sư nầy bị nhiều bài học quá nên đã gằn giọng phát biểu: học nhiều để nạo vét thật kỹ… ai có ý kiến gì nữa không, tôi xin bái lạy tất cả…anh ta xá xoay vòng cả tứ phương khiến ai sau đó cũng cười xòa.
Các tù nhân bị khủng bố liên tục, có lẽ họ là nạn nhân chịu đựng nhiều nhất vì các hành vi của con người thuộc loại nầy. Lúc nào cũng bị rình rập, tấn công từ mọi phía: bị đe dọa không cho nhận quà, ở các trại tạm giam chỉ cho nhận quà mỗi tháng một lần, tùy địa phương như ở huyện mỗi tuần một lần và không cho gặp mặt. Hầu hết họ bị vu oan do các tù nhân kiếm cách lập công dựng chuyện báo cáo và thế là thà bắt lầm hơn bỏ sót, nên ít ai tránh khỏi biệt giam.
Điệp khúc hằng ngày nơi đây là vậy, không có “mặc áo ăn cơm” như trong một công án của các Thiền sư mà chỉ có ăn cơm không mặc áo và trên thân thể các tù nhân thì người nào ít nhiều cũng bị thương tích. Chống lại chế độ thì đánh theo việc âm mưu lật đổ, còn các thuyền nhân thì đánh cho ra vàng... Trong các phòng loại nầy, không khí sợ hãi hồi hộp như luôn bao trùm xuống từng ngóc ngách của gian phòng và mỗi khi có tiếng thanh sắt kéo, cửa mở... mỗi người đều trở nên ưu tư không biết số phận của mình được an bài như thế nào. Những nỗi đau trộn lẫn nước mắt vẫn nhiều hơn những hạt cơm nếu được tính và canh gộp lại. Tâm lý bất an, bị săn lùng ám ảnh mỗi người trong từng khoảnh khắc: hồi hộp hy vọng, chờ đợi vô vọng… nào đến phiên mình sẽ bị mang đi, ít ra là chuyển phòng, thay đổi chỗ nằm, cấm liên hệ - tức là không được nói chuyện với ai, rồi cuối cùng là di lý chuyển trại.
Mỗi ngày như mọi ngày, ghẻ ngứa, lở loét, nhất là nơi các bộ phận bài tiết, có tù nhân trên người đầy mụn mủ và chứng nầy lây lan cho cả phòng rất nhanh, cũng như chứng sốt và đỏ mắt, bệnh tiêu chảy cứ ăn xong là đi cầu ngay, về việc này các tù nhân thường dí dỏm: ở đây người nào cũng bị phá tướng, ăn xong là Tào Tháo đuổi.
Nhiều tù nhân đã chết vì chứng tiêu chảy kiết lỵ, cả trăm con người chỉ có một hố xí, không có nơi nào con người cùng ăn, cùng ở, cùng làm vệ sinh với nhau “thân mật” đến như vậy, nhất là vào buổi sáng trước cảnh xếp hàng để chờ đến lượt mình vào nhà vệ sinh, nhỏ con thì bốn lớn con thì ba, cứ thế gọi là từng suất.
Sự bố ráp đến độ một Linh mục Dòng Tên đã sợ hãi lo khai báo trước, chuyện một mình ông và chỉ có Chúa biết: ông đã cất dấu cả trăm lạng vàng trong vách tường nhà Dòng, ông có học vị Tiến sĩ và thế là các tù nhân có dịp bàn tán với nhau từ trại nầy qua trại khác: Đúng là Tiến sĩ triết học nên rất giỏi  tự biết mình. Không ai cần biết ngày mai sẽ ra sao, hết thảy chỉ cầu xin sớm ra khỏi thứ phòng giam như đầy hơi ngạt nầy, dù phải lao động khổ sai.  

XI
HI VỌNG 
  
Thiện Nam là một trong các nhân chứng có mặt tại nhà Trần Xuân, dường như chàng rất nhạy cảm với những vấn đề chính trị, vì một trong những nguyên do đó là chàng sinh ra trong một gia đình tham chính tại miền Nam trước đây, song vẫn thường được giáo dục từ nhỏ: con có thể làm thứ đó ở đâu trên khắp hành tinh nầy cũng được nhưng đừng làm chính trị ở Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất dưới chế độ cộng sản, các công dân phải học chính trị Mác Lê nin rất nhiều, chàng có dịp suy nghiệm lại thế nào là định luật mâu thuẩn, con người sinh tồn trong tương tranh, không có yếu tố mâu thuẩn nào nguy hiểm bằng sự hủy diệt từ bên trong, và con người dùng mâu thuẩn để trị người, cũng như không có món nào hảo vị với các bạo chúa bằng việc nướng đồng loại và nuốt chửng lẫn nhau.
Chàng quyết định trình bày sự thật các hệ thống hối lộ đưa người ra nước ngoài trên vùng bán đảo nầy, những gì chàng biết nhờ “làm con tin” tại nhà viên Viện kiểm sát. Hơn bốn chục cán bộ lớn nhỏ bị bắt hoặc câu lưu, kể cả viên Bí  thư của toàn vùng.
Đó mới chỉ là mẻ lưới đầu tiên như những người Cộng sản vẫn luôn tuyên truyền cho các công dân của họ: Đánh địch, địch đỡ, địch sẽ sa lưới... cũng như đâu đây trong tiềm thức của chàng: lấy cộng đánh cộng, lấy cộng diệt côn đồ... Lần lượt các nhân vật trong các hệ thống đi ngang qua để chàng nhận diện và họ nhận diện chàng, cũng như nhận diện lẫn nhau.
Đoàn Di - Phó công an toàn vùng, luôn có cặp mắt sâu đỏ đầy căm thù, y nhìn chàng và có lẽ đang đặt câu hỏi tại sao: một thành phần của tư sản lại cùng thuyền với thành phần ưu tú được tuyển chọn của giai cấp vô sản... Chàng biết rõ ông ta qua Trần Xuân: người đã từng bắt cha đẻ của mình ngồi viết kiểm điểm và rồi ông cụ buồn hận thổ huyết chết... Câu chuyện xảy ra: ngày đất nước chia phân, y tập kết ra Bắc, sau khi đất nước thống nhất, y biết có người em ruột là sĩ quan của chế độ miền Nam, thế là trong những ngày đoàn tụ, không ngày nào y không nguyền rủa ông bố… Người cha phải làm kiểm điểm để xem như một sự xác định dứt khoát với quá khứ, nhưng một khi đặt bút dứt bỏ dĩ vãng tờ giấy ấy đã trở thành tờ khai tử của ông già đáng thương.
Viên Chủ tịch Hội cựu chiến binh già, vừa mới lập gia đình, hay cộng tác với công an tổ chức những chuyến chui, Trần Xuân hay nói: Nó già, có vợ quá trẻ đẹp, ham sống nên bảo gì cũng sẽ làm.
Viên Bí thư, người có trán cao, quắc thước, với thái độ như không hay biết gì hết, mọi việc đều có nghe báo cáo nhưng không đến nỗi quan trọng và y luôn đặt câu hỏi cho những ai muốn chất vấn các nhân vật của Đảng, mà Đảng là Ta. Thế thì ai đã bít kín thông tin của Ta… Trong mọi chuyện hầu như ông biết cả, song luôn giữ thái độ im lặng như không biết, mà thực tế cho đến quyết định cuối cùng bao giờ cũng thuộc về ông.
Viên Hải quân thiếu tá cái đầu bị cạo trọc, các tù nhân làm thợ hớt tóc đã kể lại, y nhất quyết không cho hớt và bảo: Ta là đảng viên, ta không có tội gì hết. Nhưng đây là trại giam, cái kéo cứ nhắp đều, còn các tù nhân chỉ thấy những người cộng sản đã từng hãm hại họ, nay lại đấm đá nhau rồi vào tù ngày càng nhiều là lấy làm thích chí.
Trưởng du kích địa phương, còn rất trẻ, ăn chơi khét tiếng, con của một viên chức cấp cao, nhưng lại qui phục và rất sợ Trần Xuân. Chính Xuân luôn xác nhận với mọi người về đám âm binh nầy: mặc dù chúng nó là vậy, nhưng ta bảo đào lỗ chui xuống, đứa nào cũng làm.
Các công an địa phương, đều có tiếng là gian ác tại vùng nầy, khi mới vào trại giam đã bị các nạn nhân trước của họ trùm mền và đánh đến bại liệt, đang ngồi trên các xe lăn có các tù nhân khác giúp đỡ. Đặc biệt hai tên cảnh sát hình sự cực kỳ dã man, những ai đã từng bị giam giữ tại vùng nầy đều kinh hãi, khiếp sợ… Bây giờ khuôn mặt chúng trông hiền từ đến thế. Các tù nhân mới đến đã kể lại, những tên nầy đã bị bề hội đồng đến thảm hại.
Có cả một hoa khôi tên là Mộng Lành, người con gái đáng thương từng trốn ra nước ngoài và bị bắt, được Trần Xuân khi kiểm tra trại giam đã thả ra ngay, sau đó y hẹn tại một địa điểm rồi cho vàng bạc đi về. Cũng từ đây, người đẹp thường xuyên giao tiếp với Trần Xuân và trở thành gạch nối với các thuyền nhân… hay đôi khi trở thành món quà mua vui để Trần Xuân cống hiến cho những nhân vật cấp cao .
Viên Trưởng công an toàn vùng, Thượng tá, người được tại ngoại, dáng vẻ còn đầy tự tin do một quá khứ mà y lấy làm tự hào như ra vào chiến khu, bẻ gãy nhiều sách lược của đối phương. Cũng giống như một viên sĩ quan đồng cấp bậc khác vì tội tổ chức đưa người ra nước ngoài, đã không hề nao núng mà còn tuyên bố trước toà: -Tôi đã từng cõng Chủ Tịch nước ra chiến khu, các đồng chí có làm được như vậy hay không và nay muốn xử thế nào thì cứ tiến hành… Có lẽ các công thần này có chung suy nghĩ: Cùng lắm là tội thiếu tinh thần trách nhiệm và sẽ được xử lý nội bộ. 
Phu nhân của Trần Xuân cũng có mặt, người đàn bà này đã bị bắt sau khi nhà cửa đã bị đào xới lên mà không bị bỏ sót một tấc đất nào, ngay cửa chính vừa khui lên là một đống vàng, các hố rác cũng đầy vàng, cả dưới giếng và quanh vườn ao cá. Tất cả đều có vàng và châu báu… Bà đã từng là một phụ nữ đẹp, và bây giờ lúc nào cũng khóc… Người ta được biết khoảng thời gian không lâu sau khi Trần Xuân không còn nữa, người phụ nữ đẹp nầy đã tái giá.
Trần Xuân, ánh mắt có đốm mây kéo màu máu đỏ như ngày nào, nhưng buồn hơn, chỉ có tên trưởng du kích con một nguyên Thứ trưởng là trông có vẻ lạc quan, người vợ trẻ của y đã mang tất cả số vàng thu được đem giao nộp cho chính quyền để xin đoàn tụ, nên y có quyền hy vọng. 
 
XII
KHÁCH SẠN TRẠI GIAM 
      
Sự thật những gì mà Thiện Nam trình bày chỉ góp phần hệ thống một cách rõ ràng hơn. Chính các yếu tố mâu thuẫn bên trong, bên ngoài, khách quan và chủ quan đối lập nhau làm bật mở bao vấn đề không ai ngờ đến. 
Viên kiểm sát tối cao đến gặp chàng, sau lời chào không có nụ cười, ông nói: -Tôi đến gặp anh - hai hàm răng ông khít lại như mỗi lời đều được kiềm chế, tiết kiệm - Anh hãy biết rằng, tôi có quyền đề nghị tha ai thời được tha, buộc ai sẽ bị buộc… Anh còn cất giấu bao nhiêu vàng, còn phân nào hay không?
- Tôi chỉ là một thuyền nhân và có bao nhiêu đã đóng cả rồi.
Tiếp theo ông nói gì đó không ai nghe rõ dù cô thư ký cố gắng ghi chép, Thiện Nam thấy ông gật gật cái đầu và ông đã ngủ gật… Thế nhưng do địa vị của mình, dường như có cái gì đó đã nhắc nhở: nào phải thắng bản năng. Viên kiểm sát bảo người thư ký đọc lại các hệ thống hối lộ một lần nữa rồi bảo: Tốt, tốt… đây quả là có sự câu kết của bọn bành trướng bá quyền Bắc kinh…đồ phản quốc, phản động, còn có vàng hay không? - ông nói trong ngái ngủ: ngay chiều hôm nay anh sẽ được ở phòng giam riêng, đây là loại “khách sạn của trại giam”, nơi đó anh sẽ có thời gian suy nghĩ biết ai còn vàng và chính mình còn bao nhiêu hãy tự giác đem nộp.
Phòng giam riêng còn gọi là biệt phòng, đúng là khách sạn của trại giam. Mỗi phòng thường rất rộng từ mười đến hai chục mét vuông, có giường riêng và chăn mền chiếu đầy đủ. Các phòng đặc biệt có thêm nhà vệ sinh, điện thì lúc nào các bóng đèn cũng sáng hơn bình thường 24/24 - đó cũng là yếu tố để ý thức của con người sớm bừng tỉnh mà khai báo.
Về thực phẩm, tiêu chuẩn cũng khá hơn. Bây giờ là vào dịp năm mới, cái gì cũng được phát nhiều hơn, nhưng rồi cũng không có cơ thể nào hấp thụ được hết vì lâu ngày mới có bữa ăn đặc biệt nên khi chất mỡ vào bụng, ai cũng dễ bị tháo dạ.
Ngày đầu tiên, chàng chứng kiến: khi cánh cửa biệt phòng vừa mở ra ở phòng giam bên cạnh, một ông lão vụt chạy nhanh ra khỏi phòng, ông ôm ngay khúc cây dài dùng làm chắn ngang cửa lớn mỗi phòng và chạy khắp trại giam. Các cai tù ở đây như quen thuộc với hình ảnh nầy nên cũng không buồn ngăn chặn… Sau một tuần ở đây, chàng biết đó là một vị Linh mục và trong tư duy Ngài lúc làm việc nầy: đó là cây Thánh giá mà ông phải gánh hàng ngày. Đây cũng là lần đầu tiên mà Thiện Nam ghi nhận về một hiện tượng tâm lý thần kinh trong các trại giam.
Đến giờ phát cơm, trước đó vài phút, chàng cũng nghe thứ âm vang từ một giọng nói rất trầm: Hãy mặc áo ăn cơm, hãy mặc áo ăn cơm… các bạn ơi, ngày nào cũng thế. Thiện Nam được biết đó là giọng nói của một vị Hòa thượng ở phòng kế bên với chàng. Ông được nhốt chung với một vị Mục sư. Hôm nào có phát cá nhất là cá con, Trần Xuân lại reo hò, la lớn lên: ăn một lúc cả trăm con cá, sướng quá ! Y muốn nói chế độ trong mẻ lưới nầy cả trăm cán bộ phải vào tù.
Và vợ của y lúc nào cũng hát, bà được tại ngoại chỉ bị triệu hồi vào đây vào giai đoạn sau cùng của cuộc điều tra để chuẩn bị ra tòa. Bà nằm ở cuối dãy và tiếng hát cất lên mỗi chiều đầy vẻ ly biệt: anh ở đầu sông, em cuối sông… một bài ca họ thường hát lúc còn trẻ ở chiến khu.
Có tiếng thét lớn của một tù nhân khác cùng dãy: - Hãy cởi ra, hãy cởi ra… những Adam và các Eva… Đó là một Linh mục bị nhốt biệt phòng đã gần mười tháng nay, hầu như ông không chịu mặc quần áo gì cả. Trong thời gian ở đây, có lúc do thanh lý phòng giam, Thiện Nam được giam chung với vị Linh mục nầy và đúng như vậy, thật là một trường hợp về tâm lý thần kinh nữa trong nhà tù cộng sản mà chàng ghi nhận. 
Thiện Nam cũng được biết các phòng riêng nơi đây từng là nơi giam giữ các Giám mục, các viên chức cao cấp của chính chế độ cộng sản và có cả các viên chức thuộc chế độ miền Nam trước đây, những người đã xây nên trại thẩm vấn nầy. Khi chế độ miền Nam sụp đổ, nó cũng là nơi tra tấn giam giữ nhưng kiên cố hơn.
…Ăn rồi lại cởi quần ra để cùng cả nước ở truồng cho vui… Sau mỗi bữa cơm Trần Xuân hát ca vang trời như vậy. Còn trước giờ phát cơm thường ai cũng ngủ.
Kẻ đến người đi ở các phòng giam là chuyện luôn xảy ra. Vào một buổi tối, từ căn biệt phòng kế bên với tường dày như thế lại có tiếng đục tường và không đầy mấy phút đã thông được một lỗ nhỏ lại tròn như chiếc đũa để liên lạc. Thiện Nam im lặng. Rồi có giọng con gái cất lên nhỏ nhẹ: -Anh có khoẻ không? Vượt biển hãy… lần sau cho em cùng đi với.
Không cần đặt vấn đề, với cách đào khoét như vậy chỉ có công an mới rành như thế mà thôi, nên chàng cười: - Cảm ơn.
Thế rồi chàng cũng không thấy có câu hỏi nào khác ngoài câu: anh có khoẻ không lập đi lập lại hoài và cô nầy hát suốt đêm làm cho mọi người trong dãy thường xuyên không ai ngủ được… rồi khóc lóc, gào réo, than thở nhớ cha nhớ mẹ…khiến các tù nhân nơi khách sạn nầy gần như muốn điên lên.
Một vài hôm sau, Thiện Nam thấy rõ cánh cửa phòng bên chỉ khép và việc ra vào luôn có người thay đổi, giọng nói của các cô gái cũng khác nhau, họ làm những động tác cho nhức đầu, mệt tim đối với những ai vốn đã yếu như đập gõ vào tường, tung banh lên trần nhà vào ban đêm… rồi hỏi thăm những ai bệnh hoạn rất ân cần khoảng năm phút một lần: Anh hoặc chú bác đã chết chưa, đã chết chưa… Lời nói ấy như rót vào tai khiến ai đó khó mà sống lâu được. Đó cũng là giai đoạn thường là cuối cùng sắp ra tòa, mọi thứ nó làm cho con người trở nên mất trí để không còn sức đề kháng, chống đối trước tòa. Nó là đặc điểm của khách sạn trại giam mà tính chất thật nghiệt ngã của nó dẫn đến hậu quả nếu không điên cũng sẽ khủng hoảng, đơn cử như cảnh nầy: 
Cũng chính các nữ tình báo nầy, họ luôn mặc quần có cờ chế độ miền Nam làm vải lót bên trong, đến mỗi bữa ăn các tù nhân ở đây phải bước qua máu huyết của phụ nữ có kinh nguyệt để lãnh cơm, bọn cai tù coi như vô tình của những chị em lãnh cơm trước đó rơi vãi ...
Vào các buổi trưa, tại nhà giam riêng hay nghe thấy những tiếng rú thất thanh vô vọng của con người bị tra tấn. Một thanh niên khi thoát khỏi sự tra tấn dã man và cùng nhốt chung với Thiện Nam tạm thời trong vài hôm đã trối lại: chính anh là một trong những người đã có tiếng kêu ấy, khi chân bắt đầu lún sâu trên hai bàn đinh. Thiện Nam nhìn xuống và quả đúng vậy, dưới bàn chân còn đầy vết lở chưa khô… nạn nhân nầy cũng cùng tên với chàng, vào lúc đó vẫn chưa đi lại được, anh ấy chỉ bò… lý do can tội bị tình nghi đánh bom làm nổ chết nhiều người tại một tỉnh miền Trung Việt Nam để chống phá Chính quyền cộng sản.
Mỗi phòng đều có một vài lỗ nhỏ nơi cánh cửa gỗ để dễ dàng cho việc tuần tra từ bên ngoài nhìn vào bên trong và cũng từ các điểm nhỏ đó, các tù nhân luôn dí mắt vào để quan sát ra thế giới bên ngoài. Mỗi ngày như mọi ngày: cảnh tra tấn, la hét, thỉnh thoảng có vài tù nhân đặc biệt bị thẩm vấn được dẫn độ ngang qua. Từ cách ăn mặc cũng như việc áp giải họ đoán biết nhân vật ấy quan trọng đến mức nào. Được thấy. được nghe… dù chỉ có một mình với chính mình, nó vẫn là niềm hạnh phúc, hạnh phúc không phải trên cái khổ đau của tha nhân nhưng ít ra tôi biết và hiểu được dù tôi chưa có khả năng ngăn chặn nó, từ cái biết đó như đánh thức trong tôi một sự khởi đầu, dù là thật bé nhỏ: tôi bắt đầu cầu nguyện...
Trước hành lang của biệt giam còn có một dãy vòi nước để có thể tắm giặt hoặc làm vệ sinh.v.v. rất thỏa mái, kín đáo, thế là hôm ấy có một đoàn người trốn ra nước ngoài vừa bị bắt, họ gồm toàn phụ nữ và trẻ em được đưa đến các vòi nầy… Mọi sự vắng lặng như nơi không người, những phụ nữ nầy cũng chủ quan như vậy nên họ thật tự nhiên… là con cháu Eva.
Sau các màn thoát y mà chỉ có nơi phòng tắm, rồi họ ra đi. Trần Xuân là người vui nhộn nhất, ông được dịp cười trong những ngày buồn tẻ và la lớn: -Kẻ lá vông, người lá tre, lớn, bé hằng hà sa số… ôi sao cuộc đời vẫn đẹp sao ! Và với giọng của một nguyên Viện trưởng viện kiểm sát, ông cất giọng:
- Trước hết là Đại lão Hòa thượng, xin Ngài cho biết ý kiến cảnh các tiên nữ xuống trần vừa qua. Đại lão đáp: -Thấy núi là núi, thấy sông là sông. Người ta nghe tiếng cười rất thanh thoát của Hòa thượng.
- Tôi từ bé đến lớn chỉ trông thấy một và nay thấy mười. Ngài Mục sư đáp. Ông ở chung phòng với Hòa thượng.
- Tôi không thấy gì cả -Thiện Nam đáp. Và Trần Xuân liền cười to: - Chắc ông bị mờ mắt mất rồi! Ha ha!
Còn vị Linh mục thường ôm khúc cây “Thánh giá” chạy quanh trại giam nói: -Tất cả rồi sẽ qua đi… Lúc tôi bị bắt còn đầy phó mát, cam, táo… trên bàn, giá như bây giờ có được cho chúng sẽ mừng lắm.
Linh mục hay hát không trả lời gì cả, ông chỉ hát như chiều nào cũng hát: Mẹ Fatima ơi… Hôm xưa trên cây Sồi… Hãy ăn năn đền tội, sớm chiều cùng nhau sám hối…
Trần Xuân lại tiếp: -Phần tôi từ tấm bé đến lớn chỉ có mỗi cái quần, đúng như Mác nói: cùng lắm là mất cái quần lót… Thuở còn thơ ấy, chỉ khi nào đến gần trường mới mặc vào, đến năm mười bốn tuổi vẫn như thế, nên bây giờ có thấy ở truồng cũng không lạ lắm, ở quê tôi cả con gái đến lúc có kinh còn chưa có đủ quần áo che thân cơ mà… Các ông biết không, nhiều khi đi dự lễ hội, bây giờ phải mặc lắm thứ đồ cho đúng chức danh, thật là khó chịu… ô, mà tôi cũng sắp trở về cát bụi rồi… các ông có Đức Tin, nên còn hi vọng… phần tôi chết là hết, là hết . Ông im lặng.
Khách sạn ở Việt Nam thường có hình ảnh không đẹp lắm, ngày xưa một thời nó là lầu xanh, và bây giờ cũng vậy, phần lớn được trá hình để chứa gái mãi dâm, ăn chơi, trụy lạc, cờ bạc và khách sạn trại giam, nếu nó không làm cho tha hoá về tinh thần, ít ra cũng đi đến về khủng hoảng, suy kiệt toàn diện: Quos vult perdere dementat. 
 
XIII
PHIÊN TÒA 
 
Những qui định khi đứng trước vành móng ngựa, thường do các giám thị của trại giam trực tiếp phát biểu: 
- Các anh đã biết thế nào là chuyên chính vô sản, tuyệt đối không được cãi lại trong lúc đang xét xử. Phiên tòa chứ không phải phiên chợ, chỉ được phát biểu khi cho phép, tốt nhất là chấp hành nghiêm chỉnh theo chủ tọa phiên tòa, mọi sự khiếu nại sau, nếu các anh chống đối trước tòa, lúc về trại giam chúng tôi sẽ kỷ luật, các anh có nghe rõ không? Viên Thiếu tá, quản lý trại giam, có nơi đến quân hàm Thượng tá, lập lại nhiều lần như thế.
Các tù nhân chỉ có sự phản kháng bất bạo động là khua còng số tám kêu lẻng kẻng hoặc ho hen thật lớn và kéo thật dài hay đưa tay xin đại tiểu tiện mà thôi… “Mọi sự đã sắp sẵn cả rồi… các anh chỉ chấp hành… chúng tôi sẽ nghiêm trị nếu ai đó ngoan cố…”, những lời nói như ăn sâu vào tiềm thức và càng gieo rắc thêm hận thù…  
 
Phiên tòa khai mạc. 
Sau những phần thủ tục hành chánh, chủ tọa phiên tòa long trọng tuyên bố khai mạc. Người ta bắt đầu nghe Viện kiểm sát luận tội, bản cáo trạng mà các bị can đã được phân phát một vài ngày trước đó để gọi là nghiên cứu, và ai cũng buồn cười về khoản: lúc đọc điều nầy Viện kiểm sát lại gằn giọng lớn tiếng hơn hết, người nào cũng cấu kết với bành trướng bá quyền Bắc kinh, đế quốc Mỹ, mà thật sự như các chủ ghe chỉ có biết trăng sao ở trên bầu trời để đoán xem thời tiết.
Với các tội danh ấy thì người nào cũng đáng bị tử hình, và trước tòa hôm nay có cả trăm người, gồm các bị can và nhân chứng, họ thuộc các thành phần khác nhau trong xã hội của cả miền Nam và miền Bắc Việt Nam.
Nhưng trước hết vẫn là thủ tục xác nhận lý lịch, người nào cũng thông qua nhanh chóng với lời: Dạ vâng, dạ vâng. Chỉ riêng Thiện Nam: không chấp nhận phiên Toà, và câu trả lời Không cho mọi câu đáp.
- Toà truyền: bị can tên là Thiện Nam, phải không? Lời Chủ  toạ.
- Thưa, tôi đứng đây là ai chắc toà đã rõ.
- Toà nhắc nhở bị can: đây là phiên Toà dưới chế độ XHCN. Toà hỏi tiếp: bị can thuộc tôn giáo nào?
- Thưa Không - Đạo khả đạo phi thường đạo.
- Toà cảnh cáo bị can lần thứ nhất. Toà hỏi bị can thuộc dân tộc nào? Kinh hay?
-  Không, vậy thưa Quý Toà thuộc loại gì?
- Toà cảnh cáo bị can lần thứ hai, cho bị can về chỗ và công việc xét xử tiếp tục - Lới viên Chánh án.
Lần đầu tiên cả hội trường nhốn nháo lên, Chủ toạ yêu cầu mọi người tham dự phải giữ trật tự. Sự im lặng trở lại ngay để được nghe xét xử với bao ánh ánh mắt như đang tò mò nhìn về Thiện Nam. 
Sau những lời cáo buộc nặng nề giáng xuống từng bị can của Viện kiểm sát, chủ tọa phiên tòa bắt đầu thẩm vấn. Nguyên tắc làm việc theo phương pháp đi từ phân tích đến tổng hợp, từ các thành viên trong các tổ chức với các yếu tố tội phạm nhỏ nhất rồi qui kết đến các nhân vật trọng điểm.
Một du kích quân điển hình được mang ra truy xét trước tiên: 
-   Anh làm theo lệnh của ai? Viên chánh án hỏi.
-   Tôi làm theo cấp trên.
-   Trực tiếp ra lệnh cho anh là ai? 
-   Trưởng du kích địa phương - y đáp .
-   Anh đã bảo vệ được bao nhiêu chuyến?
-   Ngày đêm lúc nào tôi cũng hết lòng bảo vệ.
-   Láo, láo...
-   Tôi xin thề…Tôi tuyệt đối trung thành (bị chủ tọa đập bàn cảnh cáo)...Tôi chỉ làm theo lệnh.
-   Láo, láo...
-   Như vậy, thưa Tòa thế nào là sự thật? (chủ tọa đuổi y về chỗ ngồi).
Tòa truyền tên Trưởng du kích địa phương ra trước vành móng ngựa:
-   Anh có biết việc làm của anh là sai trái không?
-   Thưa có. 
-   Bị can đã tổ chức được bao nhiêu chuyến?
-   Thưa hơn chục chuyến .
-   Ai ra lệnh trực tiếp cho anh?
-   Tôi chỉ làm theo lệnh của các Bí thư.
-   Tòa muốn hỏi ai trực tiếp chỉ thị?
-   Tôi được biết đây là chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với người Hoa sinh sống tại Việt Nam.
-   Như thế tại sao có nhiều người Việt đã bị bắt?
-    Thưa tôi không rõ, các ông Bí thư ra lệnh cho tôi đều có mặt ở đây.
-  Anh đã thu được bao nhiêu vàng và còn cất giấu ở đâu?
-   Thưa hơn trăm lạng và vợ tôi đã đem nộp đủ.
Đến lượt một viên công an cấp huyện.
- Theo các đơn tố giác, anh đã đánh đập nhiều người bị trọng thương vì lý do gì?
- Tôi chỉ đánh vì trung thành với Đảng, với Lãnh tụ tối cao để chúng nói thật, khai thật… bản chất của con người và nhất là các tù nhân là hay nói láo quanh co.
- Bây giờ, anh đang là một tù nhân, vậy điều mà một bị can quanh co trong anh là gì? Anh chưa nộp đủ số vàng đã thu được có phải không? Y im lặng.
- Anh hãy thành khẩn như người ta đã thành khẩn với anh.
- Thưa Tòa tôi đã nộp hết thảy ( có tiếng đập bàn “láo, láo” và Tòa truyền về chỗ ngồi ).
Một viên công an khác, người đã bị các tù nhân trùm mền đánh hội đồng đến bại liệt, y được tại ngoại sau đó.
-  Ai cũng công nhận tội lỗi, vậy anh nhận ra điều gì?
- Tôi biết rõ mình là một kẻ trung thành với kẻ không trung thành - y chỉ tay về phía các Bí thư đang hiện diện và nói: -Tất cả số vàng mà tôi có được là do quý cấp nầy cho tôi, tôi nào có nhận hối lộ của ai một cây nào… Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, song chỉ vì trung với kẻ bất trung, hiếu với kẻ bất hiếu mà đến nông nỗi nay... Y oà khóc.  
Cả phiên tòa yên lặng nhìn con người trên chiếc xe lăn. Tòa truyền bị can nguyên Chủ tịch HộI cựu chiến  binh:
- Bị can có biết mình đã từng cống hiến rất nhiều cho Cách mạng hay không? Tại sao nay lại làm những chuyện ngược lại như thế? Tòa hỏi.
- Tôi xin thú nhận tội lỗi của mình, tôi đấm ngực, ăn năn hối cải.
- Bị can đã tự nguyện nộp hết số vàng, kim cương đã thu hay chưa? Cụ chưa kịp trả lời, Tòa đã hỏi tiếp:
- Như thế người vợ của anh có là động cơ thúc đẩy hay không? Tòa gợi ý.
Cụ im lặng và không trả lời. Có một vài tiếng cười từ hàng ghế các bạn hữu của bị can: - Đúng rồi, đây là chỗ cấm kỵ của lão, vấn đề rất là tabou của lão... 
Tòa truyền Đoàn Di, phó công an toàn vùng, từ đám đông đã có nhiều tiếng la ó: đồ sát sinh, đồ giết cha. 
- Trong lý lịch anh luôn là một tiên phong, hôm nay anh biết rồi: là một bị can, anh sẽ đi đầu về cái gì để chuộc tội? Chủ tọa phiên tòa ánh mắt nhìn y không dứt và hỏi.
- Tôi sẽ đào tất cả nhà của các viên chức trên toàn vùng nầy, tôi tin chắc không có nhà nào mà không có chôn dấu vàng. Tôi xin tiên phong đi đào vàng.
Viên Chánh án và các hội thẩm nhìn y: -Có chắc thật không? Chủ tọa hỏi.
- Tôi tin, tôi tin 100% là đúng, tôi sẽ là kẻ tiên phong... tôi xin chuộc tội.
Đến lượt Trưởng công an toàn vùng, Tòa hỏi:
- Anh đã nhận được chỉ thị từ đâu?
- Trong cuộc họp liên tịch giữa các trưởng công an toàn miền, tôi đã nhận được chỉ thị mật nầy về người Hoa hồi hương.
- Số vàng anh thu của người Việt có nhiều không? Tòa hỏi.
- Nó không nhiều bằng huân chương của tôi đâu, xin Tòa cứ điều tra. Y thách thức và luôn cố tránh trả lời thẳng vào trọng tâm của vấn đề và luôn kể về các chiến công đánh Mỹ, chống càn quét của y… Khi chủ tọa ngắt lời, có lúc y càng to tiếng : -Các anh muốn quên đi quá khứ, muốn gạt bỏ những con người đã xây dựng nên chế độ này hay sao...
Các quan tòa vốn trong Đảng vai vế yếu hơn nên đành ngậm miệng cứ trố mắt nhìn, ráng chờ cho các đàn anh của mình nói hả dạ xong việc rồi xét xử cũng không sao. 
Tòa cho gọi Trần Xuân.
- Bị can đã lợi dụng chức quyền để quan hệ với Mộng Lành như thế nào, đã hủ hoá người con gái đang bị giam giữ này và thả cô ấy ra khỏi trại giam, có phải không?
- Thưa đúng.
- Sau khi cô ấy ra khỏi trại giam, anh đã đi lại với cô ta bao nhiêu lần? ( có tiếng la ó từ đám đông: chuyện đời tư, chưyện đời tư, quá sâu rồi ).
- Nhiều lần, Xuân đáp như các con trẻ đang chơi vấn đáp.
- Mỗi lần anh cho cô ấy bao nhiêu?
- Lần đầu ba lạng, sau đó mỗi lần một lạng.
- Về những phụ nữ khác mà anh đã hủ hóa thì sao?
- Thưa tôi không rõ, không nhớ hết… có người đàn ông nào mà nhớ hết chuyện đó. Chủ tọa và các hội thẩm im lặng.
- Thế anh đã tổ chức cho bao nhiêu chuyến ra đi rồi? Anh có biết số vàng đào được trong các biệt thự của anh là bao nhiêu không? chỉ ngay cánh cửa vào nhà đã mấy trăm cây…
- Tôi chỉ làm theo chỉ thị, và số vàng thu được chính thức cũng như không chính thức phải chia đều từ địa phương đến trung ương. Số châu báu vừa bị tịch thu chỉ là con số nhỏ còn lại của một con cá bé.
- Thế anh có nhận được chỉ thị chính thức bằng văn bản nào từ cấp trên? Tòa hỏi.
- Có ông Bí thư ngồi đây, tôi chỉ nhận toàn bằng miệng, và lúc đó chỉ có tôi và ông ấy.
- Như vậy nguyên Bí thư đã nhận bao nhiêu?
- Tôi không nhớ rõ, nhưng Bí thư đối với tôi là Tất cả…Sức mạnh của tôi được truyền đến từ chủ trương, đường lối mới của Bí thư. Y khẩn khoản.
Tòa truyền xin mời viên Bí thư:
- Anh đã nghe tất cả những gì mọi người khai về anh?
- Tôi đã nghe rõ - ông đáp dõng dạc và đứng lên một cách trịnh trọng ngay tại chỗ ngồi, không phải bước đến vị trí vành móng ngựa.
- Anh đã nhận được nhiều châu báu? Chủ tọa hỏi.
- Thề 100% là không… ông đưa tay lên thề như những lúc hô hào các khẩu hiệu trước đám đông… Xin thề 100% là không.
- Như thế, anh có chịu trách nhiệm về các hành vi của thuộc cấp?
- Tôi chỉ là một Bí thư trong số các Bí thư - ông gằn giọng. Các quan tòa vốn dưới quyền, với đôi mắt vẫn tỏ ra còn đầy uy quyền như xưa, ông muốn nhắc nhở họ: Có ta mới có các khanh, hãy nhớ điều đó.
Phiên tòa im lặng, nhiều phút thật lâu trong phần thẩm vấn viên Bí thư.
Tòa truyền cho hai người Hoa chủ chốt trong các chuyến hồi hương:
- Các anh đã đóng bao nhiêu vàng cho ông Bí thư? Tòa hỏi. 
- Lần đầu tiên gọi là xã giao mười cây, mỗi người mười lượng vàng. Cả hai cùng đáp.
- Tại địa điểm nào? ở đâu? Tòa hỏi.
- Ngay tại tư gia của ông ấy, trước giờ đi làm buổi sáng, ông không chịu nhận và chúng tôi đã dí vào túi ông, mỗi người một bên và thấy ông im lặng bước lên xe ôtô con, cả hai cùng đáp.
- Các anh đã đóng cho Trần Xuân bao nhiêu? Tòa chất vấn. 
- Cứ mỗi người Hoa muốn hồi hương là bảy lạng.
Chủ tọa phiên tòa hỏi lại viên Bí thư một lần nữa:
- Anh có nghe rõ các điều người khác khai cụ thể về anh.
- Tôi xin thề 100% là không có - Ông cương quyết.
Cả phiên tòa yên lặng, mọi ánh mắt đều nhìn về viên Bí thư - ông Vua của toàn vùng, và các thuộc cấp cũng đang dõi nhìn theo ông để tìm hy vọng một lần cuối cùng từ miêu duệ của ông. Song, họ chỉ còn nghe ông tiếp tục thề:
- Tôi biết 100%, tôi xin thề 100% là không.
Tòa truyền Mộng Lành ra trước vành móng ngựa:
- Tòa hỏi bị can: trong số các nhân vật hiện diện ở đây cô có quen biết những ai?
- Thưa hầu hết và rất quen.
- Mỗi lần Trần Xuân gặp gỡ với bị can thường trả cho cô bao nhiêu và những người khác?
- Thưa, ông ấy đã khai rõ rồi. Thưa tòa tôi không phải là gái làm nghề đó (nàng bật khóc ). Chính các ông đã đưa đẩy… phần tôi và gia đình chỉ muốn tìm đến một nơi nào đó được học hành và có nghề nghiệp… ( nàng bật khóc ) và chính các câu hỏi vừa rồi của Tòa một lần nữa xô đuổi tôi với mục đích khác… Chính Trần Xuân bắt ép tôi tiếp khách, tôi không làm cái nghề đó đâu…
Một nữ hội thẩm cho truyền bị can về chỗ ngồi.
Tòa chất vấn Thiện Nam:
- Bị can là người quyết trốn ra nước ngoài với ý đồ xấu, vậy đã tham gia bao nhiêu chuyến rồi?
- Thưa đã nhiều nhưng đều thất bại.
- Thế anh có biết mình đã đưa hối lộ hay không?
- Tôi biết, tuy nhiên luật có luật thành văn và luật bất thành văn, Trần Xuân cũng xác nhận với tôi điều đó: đây là chủ trương của Nhà nước, và chế độ XHCN là một chế độ có chủ trương, song không có chính sách. Nó luôn có mục đích và mọi phương tiện đều nhắm đến hoàn thành, những phương tiện nầy phần lớn hình thành trên luật bất thành văn, quả là khi biến khi thường của kẻ có quyền.
- Tòa cảnh cáo và yêu cầu bị can đi vào vấn đề.
- Nếu đi vào vấn đề - vâng, được… Quý tòa lấy cái vấn đề có vấn đề để xử cái vấn đề không có vấn đề thì quả là: ni affirmative, ni negative. Xin muốn tùy quyền, như Viện kiểm sát khi thì dẫn lời buộc tội theo luật của miền Bắc Việt Nam  tức của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, khi thì theo luật của Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam tức bộ luật ở chiến khu, trên rừng. Cho nên, quý vị cứ xét xử theo như ở chiến khu, lúc còn trên rừng cũng được, không sao.
Tòa đập bàn, gõ búa, cảnh cáo liên tục rồi không cho phát biểu nữa và đuổi bị can về chỗ ngồi. Viên Chủ tọa phiên tòa lầm bầm qua micro, cử tọa có thể nghe được: -Đây là trường hợp có thể dẫn đến không thể cải tạo được đối với bị can nầy.
Trong chế độ cộng sản, nếu đã được gọi là không thể giáo dục hay cải tạo được cũng đồng nghĩa với các từ: đem xử bắn, tử hình, chôn sống.  
 
XIV
LUẬT SƯ 
 
Sau đây là lời phát biểu của các Luật sư bào chữa:
- Tôi là Luật sư Trương Thị, được Luật sư đoàn đề cử từ Thủ đô Hà nội vào đây để biện hộ cho các bị can đang hiện diện ở đây hôm nay.
- Thưa Quý tòa, quả thật là khó để nói lên những điều gì đó gởi đến quý tòa trước các thành phần phức tạp đang đứng trước mặt quý vị… Họ xuất thân từ các thành phần khác nhau trong một xã hội sau ngày đất nước thống nhất. Kẻ Nam người Bắc, kẻ chịu ảnh hưởng của phương Tây, người du học Liên xô, kẻ du học Mỹ. Nhưng có một điều theo nguyên tắc chung được hình thành trong tính nhân đạo của chế độ ta là: đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại.
- Thưa Qúy tòa, trước hết với Trần Xuân, có bố là anh hùng đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp, được đào tạo tại Liên Xô, cường quốc vĩ đại, nay đã ngã xuống vì viên đạn bọc đường, nhưng thật sự cái gốc rễ sâu xa đưa đến lỗi lầm của bị can là do những người có trách nhiệm cao hơn!  Nên tôi yêu cầu giảm nhẹ khung hình phạt thay vì tử hình như Viện kiểm sát đã đề nghị.
…Như Đoàn Di, nguyên là một học sinh miền Nam, tập kết ra Bắc sau Hiệp định Genève, đã từng lập biết bao thành tích tốt trong học tập cũng như các chức vụ được phân công, nhất là với Trung ương đoàn. Thế nhưng hôm nay đến nông nỗi nầy, trách nhiệm thuộc về ai? Có phải đến lúc chúng ta phải xem lại cơ chế trong chiến tranh mà nay đã chuyển sang hòa bình xây dựng… nên chăng có một cơ chế thượng tôn pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật… chứ không theo các lệnh miệng của chỉ thị cấp trên đã trở thành lối mòn trong sinh hoạt của chúng ta.
…Như nguyên Bí thư đây, bây giờ hãy hỏi ông ấy thật sự các lệnh kia xuất phát từ đâu, ông cũng chỉ mường tượng đó là từ tinh thần của nghị quyết.v.v. Cái tinh thần ấy, có bao giờ được qui định rõ, nó thường chỉ nói lên ý chí của một cá nhân, một nhóm người… chứ không phải trong khuôn khổ của một chế độ ngày càng tiến tới dân chủ, văn minh của ta. Nó đã mang lại thành công trong chiến tranh khi nhờ tinh thần ý chí đó xác định mục tiêu chọn điểm đích, phân biệt bạn thù… nhưng nay, nó đã trở thành quá mơ hồ trong thực hiện khiến đi đến bi kịch lớn lao như hôm nay.
…Như bị can nguyên Chủ tịch Hội cựu chiến binh kia, đã hy sinh chính bản thân mình đến như thế, là thương binh loại 40%, nhưng có lẽ lòng tham xuất phát do sự thua sút, yếu kém mọi mặt… Bao nhiêu năm kháng chiến mà nay cuộc sống quá bấp bênh trước nhu cầu bé nhỏ của một tổ ấm cũng không đáp ứng được… Đó là chính sách xã hội - nó mới là nguyên nhân của vấn đề - khiến y dễ dàng đón nhận các món hời, mà cánh tay quyền lực đang nằm trong hậu duệ của y. Tôi đứng đây không phải để đóng vai trò của Viện kiểm sát  thứ hai nhưng các ý nghĩ đầy cổ hủ của các bị can nầy đã gây tác hại vô cùng trong quan hệ của chúng ta trên trường quốc tế.
... Thứ đến là viên Thiếu úy trong chế độ miền Nam trước đây, bị can đã có thái độ học tập tốt sau hai năm trong các trại cải tạo, nhưng sau khi trở về đã không có được cuộc sống ổn định, nên phạm phải những sai lầm một lần nữa.
... Với bị can nguyên Trưởng công an đây, đúng thật là với bao chiến công mà nay đã ngã xuống, chúng ta hãy nâng y dậy vì có ai nên khôn mà không dại đôi lần… Hãy nâng đỡ các bạn hữu đã bị vấp ngã của chúng ta… Hãy vực họ dậy! Quả là một sự đau xót đối với chúng ta !  
... Và với các bạn học sinh, sinh viên - phần lớn trong các chuyến đi của người Hoa cũng như các chuyến đi bất hợp pháp của người Việt. Họ đều là giới trẻ. Chúng ta nghĩ gì về tương lai của đất nước nầy, trong đó có cả bộ đội của ta cũng ra đi. Các đối tượng nầy đã được học hành chu đáo? Chúng ta có trường lớp, có Bộ giáo dục, có đường lối giáo dục; chúng ta có mọi thứ như những ai trên thế giới từng có, nhưng thật ra phải tự biết mình: chúng ta đã cố chạy cho có những cái như mọi người có, nhưng cái thật sự đáng có không có. Nó chỉ là cái khung rỗng! Đó mới là điều đáng sợ… Vậy nhân dịp qua phiên tòa nầy, tôi kêu gọi: chúng ta phải nhanh chóng chuyển biến từ một nền giáo dục phục vụ cho chiến tranh sang hòa bình. Chúng ta đã thành công trong việc chống ngoại xâm và nay, chúng ta phải thắng trong công cuộc xây dựng chế độ công bằng, văn minh… và trước hết, phải biết thắng chính mình như chúng ta đã làm và đã vượt qua.
- Thưa Quý tòa, tôi có quá lời chăng? Và nếu có cũng chỉ là một chút tấm lòng, một chút tâm huyết. Trong suốt cuộc đời hành nghề Luật sư, tôi đã từng buộc hơn là chuộc lại cho ai đó có cơ hội làm người vì đó là thời chiến tranh, chỉ có bạn thù, mà bạn khi lệch một chút đã là thù, còn hôm nay, kẻ thù lại nằm trong chính cơ chế, trong chính con người của mỗi chúng ta: nào lòng tham, tính bảo thủ, sự cố chấp trì trệ, hết sai lầm nầy đến sai lầm khác… Chúng ta cũng sẽ không thiếu kiên quyết với kẻ thù vào mỗi thời đại, nhưng chúng ta cũng biết đoàn kết toàn dân, mà vốn trong năm ngón tay đã có ngón ngắn ngón dài. Tôi tin nơi tấm lòng nhân ái với sự phán xét của quý tòa. Tấm lòng ấy chúng ta còn có trong chiến tranh với kẻ thù, quý hồ nay hòa bình, chúng ta lại không có được với bạn hữu và các đồng chí của mình.
... Tôi thành thật cảm ơn quý vị, nhất là những ai đã tạo điều kiện để tôi có mặt và phát biểu trong một hoàn cảnh đặc biệt với những bị can đầy phức tạp như thế nầy. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn.
 
Một số các bị can không nhờ Luật sư biện hộ trong đó có Thiện Nam. Chàng biết rằng trong phiên tòa dưới chế độ cộng sản mọi sự đã được sắp đặt, cho nên chàng chuẩn bị bài phát biểu trước tòa, tất nhiên dù chủ tọa phiên tòa có gõ chuông cảnh cáo thường xuyên, chàng vẫn tiếp tục lên tiếng. Đây là một phiên tòa công khai nên có rất đông quần chúng tham dự, ước chừng trên ngàn người. Cả nhà hát lớn đông nghẹt người, và dân chúng tràn ngập trên các con đường dẫn về nơi xét xử…
- Thưa Quý tòa, thưa Quý vị...
- Tôi vui mừng vì được ra tòa, đó là niềm mong ước của tôi. Lý do tôi bị giam trong một buồng riêng mà âm thanh cứ đập dội vào tường hoài, nghĩa là chúng tôi bị bố ráp tinh thần đến khủng hoảng, suy kiệt thần kinh khiến có sống được cũng trở nên điên loạn: Tôi cực lực lên án sự giam giữ nầy (có tiếng đập bàn và quát tháo của chánh án ), chàng tiếp: 
- Tôi đã được giới thiệu nhiều về các chế độ XHCN nhưng quả là mỗi chế độ cộng sản có khác nhau: ở địa phương của tôi một nếp sống văn hóa mới rất phổ cập, nhà nầy dòm ngó nhà kia đi đến xoi mói lẫn nhau nghĩa là các quyền cơ bản của con người về dân quyền không được tôn trọng. Từ tổ trưởng dân phố, tổ trưởng phụ nữ đã có thể can thiệp vào chuyện gia đình người khác...
- Họp, họp... về đến nhà là có giấy mời họp, đến công sở cũng là chuyện họp. Các công dân bị bít kín thông tin, họp chỉ để nghe tuyên truyền một chiều nên tôi cực lực lên án các quyền cơ bản của công dân bị vi phạm trầm trọng. 
- Về việc xét xử như Ngài Viện kiểm sát tối cao đã nói với tôi: “Anh biết đó, mọi sự đã được an bài cả rồi, hãy yên tâm…” Đó là tính ưu việt của luật pháp XHCN, vậy thì hôm nay phiên tòa nầy để xét xử cái gì khi lương tâm trái tim vị thẩm phán đeo ngoài túi áo? Cho nên tôi hoàn toàn không công nhận sự xét xử nầy ( tất nhiên có tiếng đập bàn, gõ chuông, cảnh báo của Chủ tọa phiên tòa, có cả tiếng còng tay mà chàng nghe rõ… nhưng Thiện Nam vẫn tiếp tục ).
- Tôi đã chứng kiến từ anh du kích đến viên Bí thư… ai cũng có toàn quyền và tôi kêu gọi mỗi người hãy tiếp tục có quyền và với quyền cao cả thật sự: đó là biết tôn trọng những quyền cơ bản của con người... (và bây giờ chàng bị cúp máy và bị lôi về chỗ hẳn).
 
XV
LỜI NÓI CUỐI CÙNG 
 
Tòa truyền cho các bị can nói lời cuối cùng trước khi tòa nghị án:
- Các du kích địa phương đều nói giống nhau: họ xin khoan hồng và xin hứa sẽ không bao giờ vi phạm nữa.
- Tên trưởng du kích địa phương, ngoài xã hội cường hào ác bá bao nhiêu thì bây giờ lại khiếp nhược hơn ai hết. Y chắp tay vái lạy các quan tòa, khóc lóc van xin: “Tôi còn vợ trẻ, con dại, xin quý tòa tha thứ… Tôi chỉ là một kẻ thừa hành với các Bí thư ở đây, các ông ấy bảo đào lỗ rồi chui xuống tôi cũng phải làm… xin tòa thứ tha”.
- Viên Chủ tịch Hội cựu chiến binh: - Tôi xin khoan hồng, tôi chỉ vì phút chốc do lòng tham mà dại dột. Lúc trước tham chiến công nay tham tiền, tôi xin thề sẽ làm lại bản thân cho xứng đáng với Lãnh tụ tối cao.
- Viên Chủ tịch thị trấn vùng Vịnh khóc lóc, lạy sụp người xuống, thời gian tám năm ở tù vì hoạt động cách mạng tại Côn đảo và nay bị đề nghị cũng tám năm tù giam, y nói: tôi chỉ nhận có hai mươi tám lạng vàng và xin nạp đủ rồi - y lạy và lạy cho đến khi cảnh sát bảo vệ lôi y ra khỏi vành móng ngựa.   
- Trưởng công an địa phương: -Tôi không xin gì cho tôi cả, nếu có tội cứ xét xử nghiêm minh và trị cho thật nặng bọn phản quốc - tức các tù nhân đa số là thuyền nhân bị bắt đã trùm mền đánh y. Y vẫn ngồi trên xe lăn trước khi ra tòa.
- Đoàn Di, người đã giết cha vừa mới được gọi đến tên, y đã đưa tay lên: -Tôi xin lập công trước tòa, tôi xin tình nguyện đi đào vàng ở những nơi mà tôi biết, các đồng chí ấy đã cất giấu, như tại nhà Bí thư toàn vùng (y là người rất thân cận và được Bí thư tin tưởng ). Tôi sẽ đào tìm ngay những nơi tôi biết …(lại có lời chửi rủa ở phía bị can và tiếng la ó khắp Hội trường khiến chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu giữ trật tự ).
- Tôi xin tình nguyện, một lần nữa, xin đi đào vàng ngay sau phiên tòa nầy.
- Trần Xuân: -Tôi chỉ nói một điều, y hô lớn trước tòa: 
- Cả nước nhiều người chứ mình tôi sao… Cả nước nhiều người chứ mình tôi sao ...! !
- Thiện Nam: 
- “Đây là lời nói cuối cùng của tôi: Tôi kêu gọi Đại hội đồng LHQ vì lý do nhân đạo hãy khẩn cấp mở một cuộc điều tra về nhân quyền ở Việt Nam mà cụ thể là trường hợp của chúng tôi, vấn đề người Việt tỵ nạn, một vấn đề có tầm vóc quốc tế mà Việt Nam là một thành viên của LHQ”.
Lập tức máy bị cúp, chủ tọa rung chuông và hét lớn: 
- Thế nào là nhân quyền, hỡi nhà hùng biện còn gì để nói nữa không, hùng biện thường đi với láo khoét thiếu chân thật…Thiện Nam liền xin quan tòa: “Đừng có nóng, hãy bình tĩnh mà xét xử” khiến Chủ toạ phiên toà càng thêm tức tối - y tiếp: “Việt Nam là nước có chủ quyền, các công dân được tôn trọng và là một nước dân chủ vào bậc nhất trên thế giới”.
- Yêu cầu LHQ như tôi đề nghị ở trên - Thiện Nam hô lớn. Lập tức các micro đều bị cúp, và viên Chủ tọa phiên tòa dọa nạt: “Lúc về trại giam anh sẽ biết, anh sẽ biết”.
Sau hết là lời nói cuối cùng của viên Bí thư: 
- Tôi xin thề 100% là không có nhận hối lộ của ai cả, 100% là không... Y đưa tay cao và hô vang giữa tòa như lúc còn đầy quyền uy hay đang đứng giữa quảng trường trên các khán đài vào các dịp mít-tinh. 
Chủ tọa tuyên bố tạm ngưng xét xử để nghị án.
Theo sự thường, tòa chỉ nghị án mười lăm phút vì mọi sự đã định sẵn, nhưng trước lời kêu gọi LHQ của Thiện Nam, vì nó quá bất ngờ đối với các quan tòa chỉ xét xử theo mệnh lệnh như một cái máy. Giờ đây họ phải nghị án lâu hơn, đúng ra là chờ chỉ thị của các Bí thư, cuối cùng sau nhiều giờ chờ đợi, đây là bản tuyên án:
Thư ký phiên tòa yêu cầu mọi người cùng đứng lên, Chủ tọa phiên tòa đọc bản tuyên án đối với các bị can: 
- Trước tình hình đất nước có nhiều biến động, các cán bộ xấu biến chất của ta đã cùng bọn phản quốc, những kẻ cố tình bỏ nước ra đi với ý đồ xấu, chúng đã cấu kết với bọn bành trướng bá quyền Bắc kinh tổ chức đưa người ra nước ngoài một cách bất hợp pháp, đã nhận trao hối lộ, lũng đoạn cơ chế cán bộ Đảng và Nhà nước. Chúng gây nên những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, nên sau khi đã xem xét kỹ lưỡng các đề nghị của Viện kiểm sát, các phát biểu của luật sư và nhân chứng, tòa tuyên án:
- Với mức án cao nhất đối với Trần Xụân: tử hình, về các tội lạm dụng chức quyền nhận hối lộ và đưa hối lộ, câu kết với các phần tử xấu làm tổn hại đến an ninh quốc gia và uy tín của Việt Nam trên trường quồc tế. Ngoài ra, y còn các tội hủ hóa, thiếu tinh thần trách nhiệm, tổ chức chứa chấp những người trốn ra nước ngoài bất hợp pháp.
- Tòa tuyên án bị can Thiện Nam 20 năm (cáo trạng chỉ đề nghị 12 năm) về các tội cố ý trốn ra nước ngoài với ý đồ xấu, tội đưa hối lộ, tội phỉ báng tòa án, tội phỉ báng chế độ, nói xấu chế độ vi phạm nhân quyền, tổng cộng các tội danh lại với bản án 20 năm.
Ngoài ra viên trưởng công an 3 năm tù treo vì thiếu tinh thần trách nhiệm. Viên Bí thư được đưa về xử lý nội bộ. Các quan chức cùng nhiều người khác từ 5 đến 10 hoặc 15 năm tù giam.
Phiên tòa kết thúc trong tiếng la ó của đám đông, nhất là sự bất bình về bản án xử lý nội bộ dành cho viên Bí thư và tất cả ra về trong sự giám sát chặt chẽ của công an.

* *
 
Toà Tối Cao
 
Tại phiên Toà Tối cao còn gọi là Toà Phúc thẩm thường tổ chức kín, trang nghiêm vì nơi đây nay gọi là Toà án Nhân dân, vốn được xây dựng từ thời Pháp thuộc hoặc của chế độ miền Nam trước đây để lại. Chánh án thì gọi là Chủ tọa phiên toà, và cùng ngồi xét xử có các Hội thẩm Nhân dân. Về phía công tố có Viện kiểm sát, Luật sư đoàn do Đảng chỉ đạo.
Trong thời gian từ sơ thẩm đến chung thẩm, Thiện Nam bị đưa đi lao động khổ sai để cho biết thế nào là “lễ độ” trong chế độ toàn trị, theo cách nhìn của các bạn tù, nhưng thật sự chàng đã không chấp nhận bản án ngay từ đầu nên không đệ đơn để yêu cầu xử lại, song họ cũng mang chàng ra xét xử. Lại một phen nữa các Thẩm phán tỏ ra bực tức vì phải đối phó, suy nghĩ, còn cách xét xử xưa nay bao giờ cũng theo khung hình phạt đã định và họ chỉ xuất hiện trước các bị can và tuyên án là xong. Thế nhưng ngay từ đầu khi thẩm tra lý lịch chàng liền phát biểu:
- Tôi cảm ơn quý vị đã đưa tôi đến đây, tôi không xin gì hết, tôi chỉ xác nhận một điều mà từ Toà sơ thẩm đến nay quý vị luôn truy vấn đó là vấn đề tôn giáo và động cơ xúi dục. Hôm nay tôi rất vinh dự trước Toà án Tối cao: Tôi là người Công giáo. Còn những gì kêu gọi về LHQ, về nhân quyền vẫn như trước đây. Xin hết. Xin cảm ơn.
Viên Chủ toạ đi nhanh những thủ tục còn lại trước khi tuyên án với phần phát biểu cũng ngắn gọn của Luật sư:
Một Luật sư khác cũng từ Thủ đô, được Luật sư đoàn cử đến, ông được mời phát biểu.
- Tôi cũng từ Hà nội đến, tên tôi là Hữu Tùng… Ông vừa tự giới thiệu đến đó, đã có lời xầm xì từ phía các bị can và gia đình khiến tòa phải yêu cầu mọi người giữ yên lặng. 
…“Đồ hủ hóa, đồ hủ hóa… lấy vợ người mà biện hộ cho ai…”
Theo lời kể của các ông chồng bị sự cố, thân nhân của họ khi đến nhờ Luật sư biện hộ, đều bị ông già trên sáu mươi nầy lạm dụng tình dục. Sự việc xảy ra không ai ngờ trước vì những mưu toan và ý đồ xấu đầy kinh nghiệm của lão khiến các bà vợ trẻ của họ phải ăn nằm với y. Về sau, một trong các phụ nữ là nạn nhân đã tố cáo sự việc nầy, nhưng không có bằng chứng gì cả. Các ông chồng trong lúc lao lý khi hay tin cũng chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt.
- Thưa Quý tòa, tôi cũng đồng quan điểm với nữ đồng nghiệp đã phát biểu trong phiên toà sơ thẩm, tôi chỉ xin nêu thêm một vài quan điểm để quý tòa và dư luận phán xét: 
- Một là: các bị cáo nguyên là cán bộ đang đứng ở đây từ chức vụ thấp đến cao, tôi tin chắc rằng không ai dám tự làm một mình về các hành vi gọi là sai trái đó…Từ anh du kích đến viên trưởng công an toàn vùng cũng đều làm theo lệnh, một thứ khẩu lệnh đầy bí mật. Chúng ta đã quen cách điều hành trong chiến tranh nhưng hôm nay rượu mới mà bình cũ, một cơ chế cũ trong một Nhà nước hòa bình xây dựng trên căn bản của sự tôn trọng luật pháp… Từ đó phát sinh đầy kẽ hở: biết luật để trọng luật, nhưng biết luật để tránh kẽ hở của luật pháp như xảy ra trong trường hợp các nước phát triển… Còn chúng ta có luật nhưng không cần biết luật để riêng ai giải thích các chủ trương theo một kiểu, khiến loạn từ bên trong. Hạt mầm ấy dù bằng hạt cải nhưng một khi mầm mống ấy đi từ trung ương, từ cấp trên sẽ không tránh khỏi qui luật: thượng bất chính hạ tất loạn. 
…Ông Bí thư nầy nhận quà thì ông Bí thư khác cũng có thể và rồi tất cả lại có thể diễn ra. Như vậy, vấn đề là cơ chế và các bị can đây chỉ là nạn nhân của cơ chế ấy. Đây là tiếng chuông cảnh báo để chúng ta thay đổi. Một vấn đề hoàn toàn biện chứng mà từ chân lý khách quan những người vô sản luôn luôn năng động.
- Tôi cũng xin ghi nhận các yếu tố phụ nầy hầu xin Tòa cứu xét cho các tình tiết được giảm nhẹ:  - Trần Xuân, Năm Sao, đến cả viên Chủ tịch Cựu chiến binh đều có vợ rất trẻ (lại có tiếng la ó từ bên dưới phòng xử) họ đều là những người hoặc chính bản thân hay gia đình đều đã hy sinh mất mát rất lớn trong chiến tranh, nay mới được hạnh phúc đã đến nông nỗi nầy! Vậy một lần nữa kính xin quý tòa cứu xét.
- Cuối cùng, tôi xin lập lại lần nữa - dáng dấp của vị Luật sư lão luyện với những cử chỉ cùng lời nói trong lúc lập luận thật nhịp nhàng - ông phát biểu dõng dạc, trầm đều, có lúc lên xuống: Đây là những nạn nhân của một cơ chế mà nay cần phải thay đổi. Thật vậy, một khi chiếc xe cũ kỹ ấy không còn nữa, lúc đó lịch sử sẽ đào thải chính con cháu chiến hữu chúng ta… Tôi tin rằng: không ai thật sự có tội trong vấn đề này, chúng ta có bổn phận cứu vớt họ, nhanh chóng chuyển hướng con tàu cho phù hợp với trào lưu của nhân loại. Xin hết. Xin cảm ơn quý vị.   
Sau phần phát biểu của Luật sư, bản án được tuyên đọc vẫn nguyên như ở Toà sơ thẩm.



XVI
KHU TỬ HÌNH
 
Bản án vừa tuyên đến người nào, lập tức đã có còng số tám bấm ngay vào tay người ấy, và không mấy phút sau khi phiên tòa bế mạc, họ đã bị áp tải lên các chiếc xe bịt bùng chờ sẳn, với tiếng còi hụ inh ỏi di chuyển trở về trại giam.
Trần Xuân vừa xuống khỏi chiếc xe bịt bùng, dù hai tay bị cùm, y cố đưa lên đưa xuống vái lạy mọi người như lời từ biệt cuối cùng chuẩn bị ra pháp trường, dù có được kháng án lần nữa, thường mọi sự vẫn như cũ.
Y không còn bình tĩnh nữa, cho đến khi bị đẩy vào phòng tối tăm với những tiếng rít của khoá bóp chặt lại. Bây giờ hai tay đã được mở còng song hai chân bị bó chặt vào bàn cùm cho đến ngày ra trường bắn, ở Việt Nam người tử tù nào cũng bị còng hai chân như vậy.
Thiện Nam, như lời của viên Chủ tọa phiên toà: -Anh sẽ biết thế nào là hình thức kỷ luật lúc về trại giam. Chàng không bị tử hình, nhưng vì lý do trả thù, cũng bị cùm hai chân. Và đây là biệt giam khác với biệt phòng, nó là nơi giam giữ tồi tệ nhất ở trại giam. Nó chỉ đủ để nằm và ngồi như đã từng miêu tả ở chương đầu tiên dẫn nhập vào câu chuyện nầy. Đó là hai dãy nhà xây gối đầu nhau, và chia thành từng phòng nhỏ đủ để lọt một cổ quan tài, người ta xây một bệ nằm với gạch màu đỏ và nếu ai đã từng nằm ở đây cũng có thể đủ biết dưới lòng đất mình sẽ như thế nào. Bên trong các ngôi mộ nhỏ nầy đầy dòi, bọ bò lúc nhúc... bên ngoài bị bít kín bởi nhiều lớp tường thành, khiến bên trong tối tăm hơn cả mọi sự tối tăm. Các tù nhân cầm cơm ăn song không biết nó có màu gì... và đây có lẽ mang nét đặc thù nhất hành tinh: Con người vừa ăn vừa đi cầu trong một cái bát. Các tù nhân bị cùm nằm nên đại tiểu tiện phải tại chỗ hết: cái bát là phương tiện duy nhất để hứng nó, rồi với tay đổ ngay hố xí trên đầu nằm, và cũng với chính nó được tráng sơ để lãnh cơm, hằng ngày mỗi người chỉ có hai lít nước vừa ăn uống, vừa vệ sinh... Để phản kháng, có tù nhân nhịn ăn nhưng việc tuyệt thực ở trại giam hầu như không có hiệu quả, nếu có ai bị kiệt sức mà chết, bọn cai tù chỉ mất đi tờ giấy khai tử.
Nơi tối tăm nầy, các tù nhân hầu như thức suốt đêm và ngủ vào ban ngày, họ sợ hãi chờ hỏi cung, chờ đợi mang đi bắn, lo lắng không biết sẽ lao động khổ sai như thế nào... Tất cả trong sự hồi họp về một sự đổi thay. Khi có tiếng khua lẻng kẻng khoảng từ bốn đến năm giờ sáng, mọi hoạt động hầu như ngưng lại, ngay cả tù nhân được mang đi cũng lặng người, thường là ra trường bắn, cho đến khi tiếng khoá cửa chính khít chặt lại, các tù nhân còn lại như đang cầu nguyện trước sự chẳng lành cho tha nhân và chính mình. Xa xa, bắt đầu từ cửa chính, cũng có lúc đầy những lời hô vang các câu khẩu hiệu phản đối bất công, yêu cầu công lý... Vì các tử tù đều biết rằng sau cánh cửa đóng lại, đó là bữa cơm cuối cùng của người tử tù, rồi các bước tiếp theo của đội hành quyết như nhét chanh vào miệng, bịt kín lại để không còn hoan hô đả đảo gì nữa..Trần Xuân vốn có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý các tù nhân và thường xuyên nói một cách lạnh lùng từ phòng của mình: đến đây thời ở lại đây, bao giờ bén rễ xanh cây mới về... Đêm qua, một tử tù đã chết do kiệt sức, phần lớn họ bị từ chối không cho nhận quà cũng như gặp gia đình vì đủ mọi lý do, nên hoang mang rất nhiều, nhất là thời gian chờ chết, người nào cũng đầy ưu tư bức xúc, trong đầu óc mỗi người như luôn có dòng chảy về quá khứ, hiện tại, tương lai... Họ biết rằng dù có nghĩ ngợi cũng không ích gì, nhưng đã mang thân phận con người thì luôn có tư duy... nhiều đến đột qụy, cộng với không có thuốc men, dinh dưỡng... khiến thân xác thành con ma chết đói trước khi ra pháp trường. Tù nhân vừa chết đêm qua về tội danh giết một Linh mục, Người bị tống tiền nhiều lần và lần sau cùng vì không thoả mãn cho chúng nên bị đâm chết trong phòng tắm. Các tù nhân hỏi y tại sao giết chết một nhà tu đạo đức như thế... y thản nhiên trả lời: -Ở Việt Nam chỉ có các Sư và Cha mới có nhiều tiền.
Một tử tù khác, nằm đối đầu với chàng về tội giết mẹ, khi đất nước thống nhất, y từ miền Bắc trở về, người mẹ ở miền Nam nhờ kinh doanh giàu có, y đòi chia gia tài với cô em gái sống với mẹ từ nhỏ. Người phụ nữ dùng dằng không chịu viết di chúc, lý do bà hãy còn khoẻ dù mắt có yếu. Thế là vào một đêm, y về thăm mẹ, trong lúc em gái vắng nhà, y bóp cổ mẹ cho đến chết, thật ra chỉ bóp đủ để bà chịu ký di chúc, nhưng không ngờ ấn tay quá sức, bà chịu không nổi và chết ngạt...  
Bây giờ, lúc nào y cũng im lặng, không nói một lời nào cho đến ngày ra trường bắn.
Thiện Nam nằm yên và lắng nghe mọi động tịch của một thế giới dù phải bỏ nhiều tỷ Mỹ kim để làm thí nghiệm, song không ai có thể làm được vì đây là vấn đề nhân bản và chỉ có kẻ đội lốt người mới hành xử như thế. Các tù nhân nằm quanh chàng đều là các thuyền nhân trọng án, có một lão ông trên sáu mươi tuổi, án chung thân vì tội trốn ra nước ngoài và hãm hiếp phụ nữ. Sự việc xảy ra sau những ngày lênh đênh trên biển nhiều người đã mệt mỏi và quên hết mọi thứ trước sự sống còn, nhưng ông lão còn đầy dục vọng, ông hãm hiếp một cháu gái chưa đầy hai mươi khi cô gái xinh đẹp nầy bất tỉnh. 
Khi toà hỏi tại sao bị can lại có hành vi như vậy? Ông trả lời: 
- Thì nó cũng sắp cho cá ăn rồi còn gì nữa... và quí toà xử cái gì trước con mồi cho cá... Chủ toạ và hội thẩm đoàn cũng không biết có ý kiến gì hơn trước những con người không còn lý trí bình thường. Câu chuyện bị đổ vỡ khi con tàu trôi giạt về lại bến cũ, tất cả đều được cứu sống, có người làm nhân chứng: lúc ông làm điều đó vài người còn tỉnh và nhìn thấy, họ đã kể lại cho nhân viên điều tra. Cô gái bất hạnh vẫn còn và được biết có thai. Còn phần ông: áp huyết cao, lớn tuổi cọng với bản án chung thân, chắc chắn sẽ không bao giờ trở lại. 
Nơi đây cũng có các tù nhân đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thường là các tù nhân ngoan cố không chịu khai báo. Một tù nhân từ các trại tập trung trở về, thấy vợ và con ở nhà mở quán karaoke, nhưng thật sự là mãi dâm trá hình. Một hôm ông thấy ngay chính các bạn cũ của mình đến giao hoan với con gái rồi vợ mình... Ông không còn lý trí nữa, gã đàn ông nầy đã làm chuyện đó với các cô con gái lớn và ngày kia đến cô gái út... Nó la lên... Thế là mọi chuyện đổ vỡ, chưa rõ sẽ bị xử án ra sao.
Một tù nhân khác còn trẻ lắm, suốt ngày la ó, tội danh hãm hiếp mẹ ruột. Trước đó bà mẹ chiều con, nhưng đến lúc lương tâm bà không còn cho phép, người mẹ quyết định dứt khoát và trong sự cự tuyệt, y đã lấy dao nhọn đâm trúng ngay tim bà. Các tử tù giết người chiếm đoạt tài sản cũng không thiếu và có đến hai phụ nữ can tội giết chồng: Thị nữ đã cùng tình nhân đưa chồng ra mương rẫy, như vẫn với công việc thường xuyên mỗi ngày của nhà nông, nhưng hôm ấy khi người chồng xuống suối lấy nước đã bị Thị và tình nhân ném đá đến chết rồi chôn vùi trong đá. Người tình trẻ ấy bị kêu án tử hình và Thị hai chục năm. Còn người phụ nữ kia cũng giết chồng nhưng không ai biết sự việc đã xảy ra làm sao, không ai nghe tiếng khóc và than thở của người đàn bà nầy. Thỉnh thoảng có ai hỏi thăm như quan tâm lắm, bà mới hé môi một vài lời: -Ta chỉ tiếc đã giết được rất ít đàn ông, chủng loại được gọi có linh hồn, còn giống cái phụ nữ như ta bị cho là không có linh hồn.
Một thiếu nữ trẻ ở phòng kế bên can tội giết trẻ em để tước đoạt tài sản: do nhu cầu mua sắm, y đã lia một cháu bé xuống giếng sau khi trấn lột chiếc nhẫn vàng trên tay em... Khi mọi người phát hiện, cháu bé đã chết.
Tội hiếp dâm, cướp của giết người rất nhiều, phần lớn dưới ba mươi tuổi - Thiện Nam kiểm nghiệm.
Các tù nhân chống đối lại chế độ, thành phần đứng đầu các tổ chức thường bị kết án tử hình, trước khi bị hành quyết họ được giam ở khu xà lim nầy, khiến nơi đây trở thành một diễn đàn về các quan điểm chính trị tự do, chuyên chế, dân chủ, cộng hoà, các học thuyết triết học... những khát vọng cao cả thật sự của con người trên một phần nào đó của hành tinh này. Thế giới hình thành thế giới, có quan điểm được nêu lên: trong khi đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, những người cộng sản kiệt sức và tự chôn lấy chính mình. Thiện Nam nhận xét hầu hết lập trường của các tân lãnh tụ nầy đều dựa trên sự tha thứ, không hận thù, cho dù họ sắp sửa chịu chết trên một đất nước quá nhiều thù hận, một dân tộc cần phải có một đường lối mới không hận thù, nhưng chính tính nhân đạo ấy, họ đã trở thành kẻ thù số một của kẻ đương quyền chủ trương đấu tranh giai cấp, cai trị dân trên mâu thuẩn hận thù. Ở Việt Nam, ra ngõ gặp anh hùng, cũng đồng nghĩa: ra ngõ sẽ gặp kẻ thù. Và sự oái ăm của lịch sử, sự truy lùng của người thợ săn kia chỉ vì mục đích con mồi mà đánh mất bản thân mình, kẻ thù ấy giờ đây nằm ngay từ bên trong: cường hào, tham nhũng, không có năng lực lãnh đạo, không còn tình yêu thương đồng loại thật sự.
Trần Xuân vẫn thường la lớn lập lại những lời nói cuối cùng trước toà của ông : -Cả nước nhiều người tham ô, hối lộ chứ mình tôi sao... Ông bị kết án tử hình về tội hối lộ. Trần Xuân cũng thường chất vấn các tân lãnh tụ: -Có bao giờ quý Ngài gặp được ông Bí thư nào chưa... mà chống đối, giỏi lắm là gặp Bí thư xã, huyện. Tất nhiên các ông sẽ trả lời: -Chống là chống lại đường lối... Nhưng phải có con người cụ thể chứ, Trần Xuân tiếp, dân rất sợ họ, vậy các Ngài có nghĩ cách nào để dân không còn sợ hãi, cái gốc rễ của vấn đề là tỵ hiềm, lòng tham, hám danh lợi, thiếu nhân ái... nên mới sinh sợ hãi và cả các lãnh tụ cộng sản cũng vậy, chính tôi là người trong cuộc tôi biết rất rõ: họ sợ dân hơn dân sợ họ... và những thứ nhu cầu kia trong mỗi đảng viên nhiều hơn các công dân cộng  lại. Quý Ngài hãy nắm vững qui luật đó.
Thiện Nam cũng được nghe về cơ cấu thuyết như: con người là nạn nhân của cơ cấu và chỉ có thể giải thoát bằng cách phá đổ cơ chế ấy. Và động lực mới là đệ nhất nguyên nhân của sự phát triển, nhất là động lực từ bên trong. Chàng cũng nghe họ bàn về một nền kinh tế công bình mang lại lợi ích, trên quan hệ hỗ tương giữa cá nhân và xã hội mà sự điều tiết thể hiện qua luật pháp, với triết lý của nó là sự quân bình. Các quan điểm có thể là những gì đã có trong quá khứ từ các chân lý cổ xưa, nhưng ở đây và bây giờ nó thoát lên từ những tấm lòng đầy khát vọng thật sự về tự do, hoà bình, hạnh phúc, chứ không vì tham vọng, nó thật sự mang lại niềm hy vọng cho mỗi chúng ta để có thể cùng nhau biết khởi đầu: biết tha thứ dù kẻ khác không tha thứ, những con người luôn tìm kiếm kiến tạo hoà bình, dù cho luôn bị trở ngại và có lúc dường như tiêu tan.
Không ai biết buổi chiều cuối cùng trong ngày sau hết của mỗi người, nhiều người... lúc nào mình được gọi về cõi hư vô? Nhưng tất cả các tử tù còn lại biết rõ, họ sẽ về cõi ấy trong tương lai không xa với sự miên man suy nghĩ: thế giới nầy, dù nơi đây có xấu xa đến mấy, cuộc đời nầy vẫn đáng quí và trân trọng. Sự ra đi của mỗi linh hồn đều ngoài ý muốn dù thế giới bên kia có là những bức tranh được phát hoạ một cách tuyệt vời vẫn chỉ là thần thoại. 
Từ thần thoại đến huyền thoại trong không gian nhỏ bé nầy, Thiện Nam ghi nhận các danh từ Nga, Mỹ lúc nào cũng được nhắc đến từ ca tụng đến phản đối, riêng nước Mỹ sẽ không bao giờ có bình yên, theo những người sắp chết ở đây, bởi vì có quá nhiều người trông chờ họ và cả nước Nga hãy có tâm hồn rộng mở như các thảo nguyên bao la của mình. Người Mỹ nên tôn trọng các dân tộc và giúp họ tiến tới tự do, dân chủ, không cần phải giàu có, mặc dù nhiều tiền của giúp đi đến văn minh nhanh hơn. Mọi người đều khát khao các nhà lập pháp Hoa kỳ luôn hướng đến sự tự do của các dân tộc vì nó là nền tảng cho sự thịnh vượng của nước Mỹ và lương tâm của Hiệp Chủng Quốc xuất phát từ những nhà lập pháp, chứ không từ các tập đoàn trên nước Mỹ nhiều khi mạnh hơn các giá trị đạo đức phổ quát. Chỉ cần những người bất hạnh trên thế giới chứ không phải người Hồi giáo, ném đá vào những nơi có bóng dáng Mỹ quốc, cũng đủ làm cho phân nửa tài nguyên của người Mỹ, cả về tinh thần và vật chất mất mát, những người bất hạnh vì họ là nạn nhân của những cuộc đảo chánh do người Mỹ tổ chức vì chính quyền đó không phải không được lòng dân, nhưng vì không được lòng người Mỹ. Các dòng tộc uy tín có truyền thống lãnh đạo các dân tộc phần lớn đều oán người Mỹ, không phải họ không muốn là đồng minh với Hoa Kỳ, nhưng bởi vì họ không dân chủ theo kiểu Mỹ; và một khi từ chủ trương chữa trị để cứu người, người Mỹ có lúc đi đến triệt hạ ngay cả đồng minh của mình nếu họ chuyển hướng phương cách thực hiện tự do cho phù hợp với dân tộc mình vì văn minh của người Mỹ là dùng bữa bằng muỗng, nĩa còn các dân tộc Á đông thời dùng đũa...  
Đó là lương tâm và huyền thoại của nước Mỹ đứng trước sự thử thách còn hay mất.
Sự im lặng dường như bao giờ cũng dành cho sự mất mát, bên cạnh những điều được nói lên, nơi đây có một thế giới lặng thinh và nó đáng sợ hơn thế giới thể hiện qua ngôn từ. Thế giới của những con người chỉ biết hành động theo lương tâm, mặc dù bị cấm đoán nghiêm ngặt nhưng các tù nhân vẫn tìm mọi cách giúp nhau sinh tồn như trao cho nhau một chút quà mọn, nó có thể là một thìa mắm ruốt, tí ít chà bông hay cách bắt một con thằn lằn... ôi ngày ấy cơ thể được khá hơn biết bao, thật vậy, cái không cần phải nói lên, đôi khi chính lại là yếu tố làm nhân loại tồn tại. Nó có phải là cái tự thân, là lý tính. Nó là tất cả, hay là hư vô. Hư vô lưu chảy hư vô.


XVII
TRẠI LAO CẢI

Nghe tiếng kẻng là sợ, đó là đặc điểm của các trại lao cải. Những chuyến xe bịt bùng chở đầy các tù nhân gồm những người thụ án hay không đủ yếu tố buộc tội bị chuyển sang chế độ tập trung được đưa đến có khi hàng ngày, hàng tuần... Quang cảnh trại giam nào mới thoạt nhìn vào cũng bắt mắt: sạch sẽ, nhiều hoa, nhiều hàng rào với bót canh nghiêm ngặt.
Xa xa nhìn lại trông nó giống như cơ ngơi của một lãnh chúa và thật vậy, những ai đã từng trải qua các trại tập trung trong chế độ cộng sản đều nhận thấy điều nầy: các trưởng trại giam giống như các lãnh chúa, có nô lệ là các tù nhân lao động khổ sai, có đất đai để canh tác và bộ đội để đốc thúc nô lệ, nhất là với cả một nhà nước đứng sau bảo hộ.
Các trưởng trại giam khét tiếng rất giàu kinh nghiệm triệt hạ con người, chúng được gọi với danh xưng ban này nọ trước tên riêng. Đây là một tầng lớp cai trị có tính khí khác người như luôn luôn la hét, quát tháo, hô vang các khẩu hiệu và tự vỗ tay tán thưởng, những con người không thích đi chung với vợ, nhưng được mệnh danh rất gần gũi với phụ nữ, như Bảy đầu rìu, nếu có vợ từ quê lên thăm, các tù nhân quan sát: y luôn đi xa cách vợ ba mét... Đó là sự thực. Các trưởng trại giam dường như đều có cùng bản chất giống nhau, theo các nữ tù nhân, không một người nào có chút nhan sắc mà chúng tha mạng, ngay cả với các nữ nhân viên đã từng qua tay chúng, những phụ nữ nầy đều được thu xếp để lấy chồng cũng là cán bộ ở đó. Đối với các tù nhân không thể giết được, chúng tìm mọi cách triệt hạ về danh dự, uy tín, đan cử như nhiều sĩ quan chế độ cũ đã không chịu làm đơn xin ngủ đêm với vợ, thế là chính các giám thị trưởng nầy đã trực tiếp bảo gia đình làm đơn rồi y phê duyệt... Ai lại không thích đoàn tụ gia đình dù trong chốc lác, nhưng sau đó là những màn rêu rao nói xấu về các sĩ quan ấy đã quì lụy, van xin.
Những ngày đầu tiên trên hiện trường lao động khổ sai, Thiện Nam được giới thiệu: kia là Nhà sư rất giỏi sản xuất hai mặt. Chàng ngẫn ngơ không biết họ muốn nói gì song vẫn giữ im lặng, mặc dù có tự hỏi: thế nào là sản xuất hai mặt, ai cũng rõ trong chế độ cộng sản tốt nhất là im lặng, nhất là trong tù, các tù nhân tiếp tục giải thích: ông là một đội trưởng tiên tiến nên thường xuyên được đi phép về gia đình sinh con cái.
     Và còn có cả “ngôi làng tình thương” nằm cách xa trại giam vài dặm, các tù nhân gần hết án nếu chịu đồng ý định cư tại đây sẽ được tha trước thời hạn. Có nhiều sĩ quan không biết đường lao lý của mình sẽ kéo dài ra sao, vì lệnh tập trung là thứ án chung thân không tuyên bố, nên họ đã thử làm cách nầy, họ được cấp đất, giúp làm chòi để gia đình sinh sống. Và theo thời gian nhiều người cùng gia đình đã biến mất khỏi làng tình thương. 
Một phụ nữ trạc tuổi bốn mươi dẫn theo tám người con đến tại nhà thăm gặp các tù nhân, không phải để thăm chồng, cha của các cháu, vì những gì mọi người quan sát thấy cũng như qua lời bà: -Đâu có gì mà thăm, với tám miệng ăn tôi cũng không biết tìm đâu để nuôi chúng, nên nay mang lên đây giao cho bố chúng nó đang bị giam giữ, vừa cải tạo vừa nuôi chúng. Tôi tuy chưa già nhưng lê lếch bươi chải đào xới trên các vùng kinh tế mới hơn năm năm qua, nay đã kiệt sức, tôi tưởng rằng chỉ ra đi có mười ngày như lời hứa ban đầu của chính quyền cách mạng, nhưng rồi năm mươi ngày, một trăm ngày, rồi ba năm... nếu chết thật đã xả tang từ lâu lắm song tiến gần đến năm thứ mười rồi mà vẫn chưa thấy tin tức về sự trở về của bố chúng cháu gì cả. Nhà cửa bị tịch thu, đồ đạc thì bán tống bán tháo ra chợ trời để sống qua ngày và một khoảng thời gian lâu dài các cháu lang thang trên những vùng đất mới khai hoang không trường không lớp. 
Ban giám thị lần lượt hết người nầy đến người khác động viên, thuyết phục hứa chồng bà nguyên là sĩ quan cấp tá trong chế độ miền Nam trước đây sẽ được tha vào một ngày không xa. Nhưng lần nầy người phụ nữ cùng các con quyết ăn vạ, không chịu về và tuyên bố rõ ý định của mình: -Trở lại kinh tế mới cũng không có gì ăn, thà ở đây phụ cải tạo tạp dịch quanh trại giam kiếm cơm cháy cốt sống qua ngày chờ chồng được tha. Viên giám thị trưởng đã gặp, quả thật theo lời y: trong suốt mấy chục năm giữ tù, chưa từng gặp trường hợp nào như thế. Và người ta được biết những ngày tiếp theo đội nhà bếp được lệnh mang cơm cho các cháu dùng bữa, các tù nhân làm anh nuôi cũng gốc là sĩ quan lại bỏ thêm cho chúng nhiều lớp cơm cháy . 
Ngôi làng tình thương đã ra đời để giải quyết một trong các trường hợp như thế. Một toán trẻ thơ khác, không có mẹ hiện diện, nhưng chúng biết rõ tên, cấp bậc sĩ quan của cha đang bị giam giữ ở đây. Sau đó ban giám thị cũng giải quyết với những lời cam kết của người bố và cả gia đình kéo nhau lên làng tình thương. Trường hợp nầy khi nghe kể lại ai cũng thương tâm: các cháu kéo lên với bố vì chúng không còn biết nương tựa vào đâu khi người mẹ cố thăm nuôi chồng cho kịp kỳ hẹn trong lúc đang bệnh, nên khi trở về phát bịnh nặng và qua đời bỏ lại bầy con thơ... Trong áo tang màu trắng thật sự chúng chỉ lên thăm để báo cho cha chúng về mẹ đã chết, thế nhưng chúng cứ nấn ná ở lại vì nơi đây còn có cha, trở về nhà không biết sẽ sống làm sao với số tiền phúng điếu mẹ đã gần hết trên đường tìm cha. 
Ngôi làng tình thương cũng gồm nhiều gia đình các sĩ quan thật sự đã có lệnh tha, nhưng ban giám thị muốn giữ chân họ ở lại, nên rào trước đón sau như hứa hẹn tha trước thời hạn nếu ai đó chịu ký giấy ở lại ngôi làng tình thương. Bên cạnh đó nhiều sĩ quan muốn thử xem mình sắp được tha hay chưa vì lệnh tập trung sẽ kéo dài vô chừng, vậy cứ làm đơn rồi hạ hồi phân giải.
Các khu kinh tế mới được tổ chức như thế nào, làng tình thương cũng thế, nhưng sự quản chế chặt chẽ hơn. Các tù nhân dù đã có lệnh tha nhưng muốn đi đâu đều phải làm đơn xin phép ban giám thị trại giam. Nó toạ lạc cách trại lao cải không xa lắm, bên dưới một triền đồi gần các suối chảy về con sông nhỏ bao quanh trại giam. Các căn chòi đều làm bằng vách nứa, lợp lá tranh, bên trong có giường cũng bằng phên tre đóng chặt theo các trụ cột và thường các cơn lốc rừng kéo bay các mái chòi nhưng giường vẫn còn lại . Giữa nhà đều có bàn bằng gỗ hoặc các gốc cây cổ thụ đã được cưa ra mang từ rừng về, không ai thấy các vật dụng cho tiện nghi một chút trong các căn chòi nầy như xoong nồi một cái, chén đũa vài cái... Trông toàn cảnh và từng căn thật trống vắng dù cho có sự giám sát chặt chẽ, trại giam có phát gạo trợ cấp trong giai đoạn đầu. Trên các mái nhà thời thả đầy dây mướp, trước sân cũng như chung quanh bờ rào toàn là khoai mì, một thứ lương thực chính cứu đói của cả nước vào thời kỳ nầy . 
Cái nóng ở đây như muốn lột da đầu, khiến các tù nhân liên tưởng đến cái nóng do hơi người phát ra trong các phòng giam tập thể như có hơi ngạt , cả hai nơi mồ hôi đều chảy ra ướt sũng trên thân người; các cư dân ít ỏi của vùng nầy thì người khô đét lại, còn các sĩ quan vốn có trình độ thì hiểu ra rằng nơi đây mới thấy rõ sự tăng dần nhiệt độ của địa cầu. Hai tâm trạng khác nhau, những gia đình người dân tộc sống rải rác trên các triền đồi- họ yên phận; còn các công dân hạng hai bị cưỡng bức định cư thì nghĩ rằng tất cả chỉ là tạm thời. Thế giới nầy không phải của ta. Thế giới thật của ta quả là không phải ở miền Sơn cước. Thế giới thật ở một nơi ta đang bị tước đoạt. Người nào cũng mơ về cố quận. Và quê xưa chốn cũ nếu tìm lại được sẽ chỉ là cố quận bên kia cố quận .
Các tù nhân cũng nhận ra nền của một Ngôi Thánh đường được xây bằng gạch rất chắc chắn, chiến tranh đã làm hoang phế và nay hòa bình nhưng thực tế cấm đạo nên không ai được phép trùng tu. Ngôi nền tọa lạc tại ngã ba đường vào trại giam và lối rẽ lên triền núi. Theo các tù nhân người địa phương: chính các Cha Thừa sai đã đặt chân đến đây và họ còn nhớ ông bà đã thuật lại rằng có Linh mục người Pháp thường xuyên đến vùng nầy để phát thuốc sốt.
Vào mùa đông, thời ai cũng sợ, không phải sợ lạnh vì trên thế giới còn nhiều nơi lạnh hơn song con người vẫn chịu đựng được, nhưng sự sợ hãi trùm lên mỗi người khi khí hậu thay đổi đột ngột, khoảng từ chín giờ tối đến giữa khuya, khiến hầu như tất cả những ai bị hen suyễn, lao phổi, bao tử đều lên cơn dữ dội. Thiện Nam mắc chứng suyễn kinh niên và chàng suýt chết lên chết xuống nhiều lần, cho dù có chuẩn bị thuốc bơm, thuốc uống vẫn không mang lại hiệu quả là bao. 
Con người thời đồ đá đó đã biến các công dân miền Bắc đau khổ biết dường nào qua cuộc cải cách ruộng đất, các phong trào đấu tố lẫn nhau, xô đẩy thanh niên vào cuộc  chiến tranh huynh đệ tương tàn, và nay những nhà lãnh đạo cũng trong bản chất đó muốn biến các người miền Nam phải chịu đoạ đày hầu trở nên ngang tầm thời đại về tính mê mờ, lạc hậu. Lịch sử trong một giai đoạn nơi bộ lạc người nào đó không còn là sự sáng tạo mà chỉ là sự ghi chú những ngớ ngẫn của con người. 
Người mẹ và tám đứa con với các thủ tục bảo lãnh, cam đoan cho chồng an tâm định cư ở lại lập nghiệp nơi làng tình thương. Sau một tuần lễ các cháu biến mất về thành phố vì lý do sốt cao, chúng sốt thật và có vào bệnh xá trại giam để xin thuốc điều trị. Nhưng thuốc ở nhà tù chỉ toàn rễ cây nên chúng không chịu uống. Và với lý do chính đáng xin trở về để chữa bệnh, hình như các cháu đã không trở lại cho dù viên trưởng trại cũng như chính quyền địa phương có hứa sẽ thiết lập mái trường tình thương . 
Quý ông chồng vẫn trụ lại để làm tin, hầu như khi nhận được lệnh tha đến khu làng nầy, không ai còn sức khoẻ để mà canh tác nữa. Hết thảy những nạn nhân trong chế độ lao tù cộng sản lúc cầm giấy phóng thích ra khỏi cổng trại đều có cảm giác như là phép lạ. Và những gì đã xảy ra từ tiếng kẻng, những tờ kiểm điểm, đày đọa, nhục hình... có lẽ sẽ còn ám ảnh trong suốt cuộc đời còn lại của mỗi người. 
Những bà vợ thì chạy đi chạy về nơi chốn cũ cùng lên xuống chỗ chồng mình đang bị quản chế. Riêng các con trẻ được sống trong hai thế giới: một nơi có trò chơi điện tử với công viên cây cảnh nước phun đầy ánh sáng... và một thế giới chỉ duy chiếc đèn dầu hiu hắt song có nhiều đom đóm, không có máy điều hoà nhưng sương lạnh đến ướt cả chăn vào ban đêm. Một đứa trẻ thốt lên với mẹ: -Ở đây có muốn ăn mày cũng không biết xin ai... Thế là bố nó bảo: -Nhưng sẽ có nghề ăn trộm đấy con à... không ai có gì để cho vì thóc lúa, mía đường, toàn bộ hoa màu là của nhà nước. Nên sau nhiều năm lao cải ở đây, ba được biết dân chúng có nghề ăn trộm của nhà nước hay hợp tác xã rất chuyên nghiệp. Tất cả cùng cười trong ánh đèn chớp loé, phụt lên phụt xuống như có pha lẫn thêm hợp chất nào khác và tiếng vỗ tay lốp bốp thật đều nhưng không phải để tán thưởng câu chuyện song là tiếng xua chụp muỗi.
Ban ngày những con trẻ lớn nhỏ đều phụ bố mẹ trồng khoai mì, chúng nhớ lại khi đất nước thống nhất học sinh theo thầy cô đi trồng khoai và nhặt giấy vệ sinh để làm kế hoạch nhỏ... ở đây môi trường sạch hơn và dường như không có giấy loại ấy. Trong thời gian ngắn sống tại khu làng tình thương, chúng cũng nhận ra các bạn trẻ quanh vùng không được học hành, vì trường quá xa và bố mẹ hầu như sinh chúng ra để cùng tồn tại mà thôi. Những con người chân chất nầy không bao giờ sống no đủ, tất cả nếu có đều của hợp tác xã, chẳng may vào những mùa thất thu, với công điểm của họ cộng lại chia đều thật buồn cười, tất cả sự lao lực của mỗi người chỉ là công dã tràng, song các xã viên đều nhận ra các Bí thư, Chủ tịch hợp tác xã, Chủ tịch xã lại béo lên. Nên dù còn tấm bé nhưng qua lời bố mẹ chúng đều nhận biết: ở đây muốn có cái no hằng ngày chỉ việc ăn cắp lương thực, nhất là hoa màu của trại giam vào ban đêm ít ai thật sự trông nom. 
Thiện Nam trải qua trại lao cải A30 Cổn Sơn gần ba năm và chàng có nhận xét rằng con trẻ ở đây rất tình cảm với tù, không như các thiếu niên nhi đồng và người lớn ở miền Bắc, họ ném đá vào tù nhân ngay cả trên đường di lý. Con trẻ nơi này biết phân biệt thiện ác, cái thiện của “nhân chi sơ tính bổn thiện”, nhưng xem chuyện ăn cắp không thuộc về tội lỗi, vì theo lời chúng: các ông nội ở trên mới là trộm chúa, nếu mình không biết chôm chỉa tí ít thì chỉ có thác thiêng, nên chúng thật tự nhiên trong những việc làm bắt đầu có sự gian dối.
Ngôi làng tình thương vắng dần, vắng dần và khi các sĩ quan miền Nam được thả đồng loạt, thế rồi các viên chức đi tiên phong xin định cư ở ngôi làng nầy cũng rút dần. Theo tiêu chuẩn định cư nhân đạo của chính phủ Hoa kỳ: các thành phần từng cộng tác với họ trước đây, các vị nầy nếu còn sống có lẽ đã lập nghiệp trên vùng đất mới và cũng không ai chắc gì dễ quên làng tình thương đã có lần đi qua trong chốn bất hạnh tận cùng của đời họ. Một khi thế gian nầy nói quá nhiều về tình thương và nhân danh chúng: Tất cả chúng ta đều muốn bỏ chạy .
Những đoàn người gồm nam phụ lão ấu, họ đông hơn cả tù hiện diện đang cắt lúa chín, từng tốp một họ tiến lên nhào nhào sát bên chân các tù nhân, các cụ già đi tiên phong vì nếu có bắn thì các cụ sẵn sàng hứng đạn thay con cháu, họ đang mót lúa mà đúng hơn là cướp cạn vì có người dân còn ôm luôn cả lúa đã bó sẵn rồi bỏ chạy. Cả tù nhân, kẻ ăn hôi và phần lớn quản chế đều cười hoặc tránh đi, chỉ khi nào có Bảy đầu rìu hay các tên phó của y xuất hiện lúc đó mới có tiếng súng chỉ thiên cùng tiếng la mắng: -Tao sẽ bắn tụi bay... Tao bắn bay. Thật vậy nghề chính của họ từ khi có hợp tác xã ra đời và trại cải tạo nầy xuất hiện là nghề thu nhặt hoa màu rụng rớt trên những cánh đồng sau khi các xã viên hoặc tù nhân thu hoạch, và quả thật nếu may mắn theo chân của tù thì còn có của ăn... Trong những túp lều tranh người già ngồi tuốt lúa đã nhặt được trên cánh đồng vào mùa gặt, rồi bóc vỏ trên cối giả bằng tay như cối chà tiêu mỗi ngày, với họ sảy ra thành nắm gạo nhỏ thật quý vô cùng. Họ gặp tù là chào vẫy tay, họ thương tù là vì vấp ngã nên mới vào tù, nhưng trong cái thiếu sót từ lòng nhân ái của con người với con người lại nuôi sống được chính họ.
Các trại giam thường toạ lạc dưới thung lũng, chung quanh núi non hiểm trở, bên cạnh có những dòng sông nhỏ để tiện việc sinh hoạt như tắm giặt, cơm nước và các chuyện vệ sinh khác. Nhưng vào mùa mưa lũ, thì hậu quả khắc nghiệt của những cơn mưa dầm ở thượng nguồn, nó như muốn cuốn trôi đi mọi thứ, mực nước cứ dâng lên từ từ và các tù nhân di chuyển dần theo lên chân núi với các lương thực chính là khoai mì.
Các đợt lũ thường đột ngột đến và rút đi rất nhanh trong kinh hoàng, khiến sau mỗi mùa mưa lũ các tù nhân nhìn lại nhau trong reo mừng biết mình hãy còn sống sót. Những gì bị cuốn trôi lại được tiếp tục xây dựng, nước sông công tù: kẻ sấy lúa ẩm ướt, người dọn kho, hầu hết các tù nhân buộc phải lo cũng cố phòng giam, sau đó mới trở lại các cánh đồng cho kịp thời vụ. 
Một hôm, có viên trưởng trại đi xem xét tình hình và ngang qua nơi lao động khổ sai gồm các tăng ni, Bảy đầu rìu -tên của trưởng trại ở đây do tù nhân đặt, đã hỏi chuyện với một trong số các tu sĩ ấy, và mẫu đối thoại như sau:
Mày có học Tam tự kinh hay không... Đại đức chưa kịp trả lời y đã tiếp: Ngày xưa lúc còn nhỏ, tao cũng học Tam tự kinh... Nhà sư chỉ mỉm cười... Thế mầy đã tu được mấy năm rồi vào tù... mày có biết chính sách của đảng rất tôn trọng tự do tôn giáo hay không? -Mày có biết Phật dạy không... trong cảnh khổ hãy cùng nhau cứu khổ, khổ vì áp bức, khổ vì bất công do Mỹ Pháp đô hộ... thế mà mày lại đi chống đối cách mạng. Này, thằng tu hành kia, mày có biết lãnh tụ vĩ đại là ai không... đó là Phật sống, là Thánh Chúa.
Thuyết giáo một hồi, không có đối thoại, viên giám thị bỏ đi... Các tù nhân cũng không lấy gì làm lạ về sự ăn nói đầy miệt thị của y đối với các vị lãnh đạo tinh thần khả kính của họ, vì phàm ai cũng biết rằng: thế gian nầy, nó là thế đấy.
 
* * 
Một ngày kia, Bảy đầu rìu vào thăm các tù nhân trọng án, những người nầy luôn bị cùm, ít ra cũng là cùm chân vào ban đêm, y nói: -Các anh có ai bị đánh đập hay không... đứa nào đánh các anh là đánh trên đầu của tôi đây... các anh có ăn uống đầy đủ không? Nhân các ngày trọng đại, tôi sẽ cho các anh ăn lớn, các anh nhớ không cho ai được đụng đến thân thể... các anh có ai biết chữ Hán không... gọi là bảo trọng.
Nhưng Bảy đầu rìu vừa bước ra khỏi phòng giam, ngay lập tức diễn ra một màn bề hội đồng tàn nhẫn. Các quản giáo, quản chế tay cầm vũ khí, chân mang giày ống tha hồ nhảy lên người các tù nhân đang bị cùm mà đấm đá... Các tù nhân kinh qua một trận đòn kinh hoàng với thân xác đầy thương tích, đau đớn.. Quả là chữ Hán nó rộng đến dường nào, ở đây chỉ mới cảm nhận một lần nữa: đừng nghe những gì chúng nói, hãy xem những gì chúng làm.
     
Đêm đã về khuya, gió nhẹ thoang thoảng mùi xú uế bay đến các phòng giam, đó là mùi hôi thúi từ khu trọng án: nơi giam giữ các tù nhân chống đối lại chế độ hiên hành, công việc hằng ngày của họ là nhảy xuống hố phân người, đạp sao  cho nhuyễn cùng lá cây để bón rau cải..Họ luôn luôn có hai bộ đồ, thứ mùi phân khô đó chính là từ quần áo lao động được treo ngay ở cổng trại vì không ai dám mang vào phòng ngủ.
Công việc khổ sai nầy không ai được miễn giảm, dù đang bịnh ngoài da. -“Hãy nhảy xuống, nhảy xuống...” 
Đó là mệnh lệnh với bản súng, gậy gộc của bọn cai tù và các đội trưởng thường là tù hình sự. Ai nấy đều nhảy xuống trong ý nghĩ: đã dấn thân trên trường chính trị ở đất nước nầy thì có gì mà nhơ với bẩn... và “cái hữu thể chính trị đó”, các tù nhân đùa bỡn: kiếp sau, nếu có làm chính trị, xin tiếp tục làm ở Việt Nam, Bắc Triều tiên, Cuba lần nữa, mới thấy rõ được phần nào tính thể của con người: vì nơi đây có đầy sự kiêu ngạo và càng kiêu ngạo, càng biểu lộ tính ác độc của mình.
 
Các tù nhân mới đến, người nào cũng bị sưng chân, có khi cả khuôn mặt sưng húp như ông địa, do thiếu dinh dưỡng... bây giờ phải lao động nhọc nhằn như đục bổ đá, gánh gồng đất cát từ bờ sông lên các triền đồi để xây dựng, đốn hạ cây từ rừng sâu mang về làm gỗ hoặc củi đốt. Và tất nhiên không ngoài tiêu chuẩn: hãy cho chúng ăn rất ít, nhưng bắt chúng làm thật nhiều. Nên việc đào thoát là phương cách thường được chọn lựa trong lúc bị giam giữ, còn vấn đề được tự do hay trở thành siêu thoát thời xin chấp nhận vậy.
     Các tù nhân phần lớn dùng phương án thứ hai, liều thuốc kiên trì nhẫn nại của nguyên soái Koutouzoz trong tác phẩm Chiến tranh và Hoà bình. Các vụ đào thoát cá nhân, hay bạo động trốn trại tập thể cũng thường xảy ra. Các tù nhân dùng cuốc xẻng làm thứ vũ khí ban đầu, rồi cướp súng của các quản chế để đào thoát. Những hình ảnh của con người trong giây phút một mất một còn đáng được ghi lại rất nhiều, nó là những thể hiện của con người về nỗi kinh hoàng và lòng trắc ẩn, ý chí cùng bản năng sinh tồn mà qui hướng mỗi người đều muốn có một mái ấm gia đình, hạnh phúc dù bé nhỏ…Thế nhưng làm sao có được những cái tối thiểu đó. Có người chỉ vì một câu nói trong lúc hoàn cảnh quá khó khăn, đã than oán chế độ và thế là chính quyền địa phương đề nghị tập trung cải tạo, sau đó hết lệnh tập trung nầy đến lệnh tập trung khác, mỗi lần ba năm, không biết có ngày về? 
Khi vượt ngục, không ai nghĩ mình sẽ chết dù đi đến một sự liều lĩnh tột cùng, con người thật sự đều tha thiết với cuộc sống, một sự liều lĩnh đến quyết định phải chọn cái chết, bởi chính cá nhân ấy muốn sống hơn ai hết và thậm chí phải chết để cho cái sống lớn hơn vĩnh hằng: đó là sự tồn tại của cộng đoàn, của giống nòi. Và sau đây là vụ bạo động ở một đội trọng án tù chính trị. Hầu hết các thanh niên đều tham gia, trừ những người cao tuổi, mỗi đội khoảng ba chục người. 
Diễn biến trong những giây phút đầu, không ai hiểu được tại sao đến gần giờ ấy cả đội lại im lặng đến thế, cũng không ai muốn đặt câu hỏi tại sao vì các tù nhân đều đã có câu trả lời: không mấy phút nữa sẽ có sự đối mặt giữa cái sống và cái chết. Với các ám hiệu truyền cho nhau mà thị giác, thính giác phải làm việc nhiều nhất trong giây phút nầy... Đã có sự ẩu đả với cán bộ trại giam, súng nổ, một số tù nhân chạy thoát, số khác bị thương không thể theo kịp và chạy rất chậm vào rừng.
Các tù nhân cao tuổi chứng kiến, kể lại - các cụ nầy về sau bị cùm trong nhà kỷ luật rất lâu - Khi có súng nổ, bọn cán bộ nầy đã quì lạy và chạy trối chết, chúng lủi trốn vào các chuồng heo của trại giam... nhưng chính bọn tù tự giác thấy sự việc, đã lập công bằng cách đánh kẻng báo động. Thế là Bảy đầu rìu lập tức huy động một lực lượng hùng hậu đánh đuổi theo, các tù nhân ăn hôi muốn lập công rất đông. Họ rượt bắt... các tù nhân bị thương chạy chậm bị tóm lại gần hết... Họ bị xếp thành hàng dài giữa đồng, họ quì gối và đưa tay đầu hàng hoặc chấp tay cầu nguyện, chỉ có một hai người van xin... Tất cả im lặng... Nhưng Bảy đầu rìu, trưởng trại ở đây với tiếng hô khát máu: bắn, bắn... Và thế là không còn ai sống sót.
Buổi chiều hôm ấy, những chiếc xe bò chở xác người có quấn chiếu đi về phía nghĩa trang trại giam. Bọn cai tù cố tình chôn cất rất sơ sài, chúng ra lệnh đào thật cạn, cốt sao mùi hôi thúi của xác người khi phân rữa sẽ bay khắp trong ngoài trại giam. Nghĩa trang nằm ngay trên hướng đi về các cánh đồng, các tù nhân lúc băng ngang qua đều phải vội bịt mũi và chạy nhanh khi phải học bài học đau thương nầy cho thật mau thuộc. 
Nơi nghĩa trang nầy cũng có nhiều người tự tử, có cả một viên Trung tá thuộc chế độ miền Nam trước đây đã treo cổ tự tử ngay những tháng đầu mới vào trại cải tạo, những nấm mồ còn lại phần lớn họ bị giết chết vì tội đào thoát, một số không ít bị bịnh mà chết. Có trường hợp bịnh dại do chó cắn, biết là chó dại, nhưng giám thị trại giam không cho đi bệnh viện và giao cho một lang băm chữa trị; thầy lang nầy hay mặc áo nâu, tự xưng là cao tăng nhưng không thuộc giáo hội chính thống, cũng là người được các giám thị ở đây tin tưởng, vì y hay bổ cho họ những than thuốc đặc trị thuộc về đàn ông mà chỉ có họ và y mới biết. Sau thời gian chữa trị đúng ba tháng mười ngày bệnh dại khởi phát, người tù thanh niên chống lại chế độ phát điên và chết. Người chữa trị vẫn tiếp tục chữa trị. Các tù nhân mới kháo nhau: con người có chín mươi chín chuyện hỏng nhưng có một chuyện chính không hỏng là thành công rồi. Mỗi cá nhân có nhiều yếu tố hợp thành, nhưng được hết mà mất cái đệ nhất nguyên nhân như Freud luận chứng cũng hỏng hết. Đó là cái dục: libido. Và Nhà sư cao tăng kia đã chữa đúng cái đệ nhất ấy.
Thiện Nam cũng chứng kiến, ở trại giam nầy có quá nhiều giáo chủ, các chủ tịch và thầy thuốc nam. Sau đây là vài sự cố xảy ra với các giáo chủ:
-   Giữa đêm khuya, có một giáo chủ bị lôi ra khỏi mùng và bị đánh một trận nên thân, không phải vì tội tự xưng là giáo chủ, nhưng mấy hôm nay ông tuyên bố tuyệt thực, rồi nửa đêm chui vào mùng ngậm mì tôm nhóp nhép khiến nhiều người khó ngủ. Bị đánh hơi nhiều, y càng thanh minh và càng bị đánh thêm vì đang tịnh khẩu mà nói nhiều. Đặc điểm giáo chủ thường phát quà cho các tù nhân mồ côi, gia đình giáo chủ thăm nuôi rất đều.
- Một giáo chủ khác đang bị quản giáo bắt quì gối xuống buộc ăn cho hết cả quầy chuối, tự xưng là lãnh đạo tinh thần nhưng cũng biết chặt chuối trộm và chôn giấu như các tù nhân khác để chờ chín rồi ăn dần. Hôm ấy bị bắt gặp, giám thị bắt ông phải ăn cho hết... Giáo chủ quì gối xuống vái lạy xin: thà vào ngồi nhà đá, chứ không thể ăn hết một lần. Đặc biệt ông có đức tính rộng rãi, luôn chia quà cho anh em nếu có.
- Một giáo chủ khác có đến mười một bà vợ, theo chính lời y kể. Y có tài thoa bóp, hầu như mỗi chiều Bảy đẩu rìu đều có hẹn với y. Theo lời các tù nhân truyền miệng: giáo chủ tự xưng nầy có nhiều tà thuật cũng như lắm trò bá đạo, nhưng có điều ai cũng thấy rõ: khi có thức ăn, y đều chia cho anh em, y cũng thường chui vào các bụi cây để thủ dâm nhân lúc giải lao, khi bị bắt gặp y giải thích: đó là cái nghiệp mà “ thầy” phải trả, những con quỷ nó cứ theo thầy, hãy cầu nguyện cho thầy. Đặc biệt ngay trong trại giam, vẫn có người không sợ kỷ luật, họ quì sạp xuống và vái lạy ông, cũng như có người đánh đá ông mỗi khi ông làm những hành vi gọi là quỷ đeo đuổi. 
-Một vài nhân vật khác đêm nào cũng cầu cơ, họ giăng mùng vây kín không cho bọn tuần canh biết. Cho đến ngày kia có một bạn tù thích làm đến chức tỉnh trưởng mà cơ xuống chỉ phong làm lính gác ở quận, anh ta đã la toán lên đến tai bọn ănten... Tất cả đều bị đi cùm sau đó, những kẻ sống sót người nào cũng mang một di chứng thần kinh: lẩn thẩn, mất trí nhớ, chậm chạp, khờ khạo... Họ đã bị đánh đập dã man. Đặc điểm ai cũng thích từ thiện, chia xẻ lương thực cho người nghèo khổ.
 -Và sau đây là câu chuyện “bất hủ”, trong tù vì điều kiện thiếu thốn phát sinh đủ thứ bệnh, kể cả các bệnh tâm lý, song thuốc men cũng như thầy thuốc rất hiếm cho nên mới phát sinh ra vườn thuốc nam lấy cây cỏ làm thuốc, cùng các lang băm châm cứu xuất hiện rất nhiều. Họ từ cầm súng đến cầm kim chích thật nhanh. Bọn cai tù giàu kinh nghiệm như Bảy đầu rìu rất sành sỏi chuyện nầy: nó không mang lại hiệu quả trị bệnh nhưng ít ra chữa trị được các chứng tâm lý, nhất là không mất một đồng nào của trại giam.      
- Tất nhiên các giám thị nào cũng nhiệt tình cổ võ, và mỗi chiều sau giờ lao động về, các tù nhân nam nữ sắp hàng để được khám chữa bệnh qua châm cứu... nó nhiều đến nỗi như Bảy đầu rìu không thể ngăn được vì chính y cũng là người cổ xúy. Lý do có một thầy thuốc rất giỏi ai cũng muốn khám với ông, nhất là phụ nữ. Thế rồi câu chuyện chữa bệnh với các tình tiết được thêu dệt đến tai y: cách chữa trị, thầy châm cứu xoa bóp trên người họ, châm tê những chỗ huyệt kích thích... Mỗi buổi chiều sau một ngày lao động mệt nhọc được như thế, quả là hơn uống bao liều thuốc bổ.
    Chiều hôm ấy, Bảy Đầu rìu lẻn đi vào cửa sau phòng khám, có nội ứng vạch một lỗ nhỏ, y chứng kiến: một phụ nữ bán thoát y đang được châm tê... Chính ông Bảy nhìn thật kỹ, theo các người đi theo, ông vẫn chưa tin, rất cố dí mắt vào đến lúc không chịu nổi phải la lớn: bất hủ... bất hủ... Bảy đầu rìu đá bức rèm rồi xông vào... ra lệnh dẫn đi cùm ngay thầy châm cứu. Mọi người trong bàng hoàng không biết chuyện gì đã xảy ra mà bất hủ như thế.
 
Các câu chuyện ở trại lao cải nó là như thế, mỗi ngày như một dòng chảy luôn qua ghềnh thác đầy khúc khủy, từ ngoài nhìn vào như một dòng chảy êm đềm: ở tù là hết, nếu còn sống đến hết án rồi trở về, nhưng cũng không có gì biến động hơn cả một dòng sông, những gì không bình thường dần dà trở nên bình thường, nó mang theo nhiều kỷ niệm trong dấu ấn đời tù của những ai đã từng bất hạnh mà qua đây. 
Dòng sông bao quanh trại giam, thường đầu nguồn dành cho nam giới, cuối nguồn dành cho nữ giới, mỗi chiều họ trầm mình “thanh tẩy” trên dòng sông nầy trước khi về trại giam... Vẫn chưa yên tĩnh, một vài tên cán bộ lại rơi tõm ngay giữa nơi các tù nhân nữ đang tắm, bọn giám thị nầy núp ngay trên các cành cây cổ thụ có tàn lớn đưa ra giữa bờ sông để ngắm nhìn các tù nhân nữ đang thoát y và chẳng may sẩy tay... Không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra dưới bàn tay trả thù của phụ nữ.
Mỗi dịp xuân sang lại nhiều thay đổi, sau những ngày Tết, các trại giam thường xảy ra những vụ thả tù dù đã có lệnh tha trước dịp lễ, sự thanh lý các trại giam cùng việc di chuyển tù... Thiện Nam được đưa đến trại giam thuộc sự quản lý của trung ương và tất nhiên khắc nghiệt hơn. Dù vậy, trại lao cải chàng mới trải qua cũng mang lại nhiều ấn tượng trong khổ nhục, đau đớn, và một lần nữa ra đi là đã “chết trong lòng một ít”... Một nữ cán bộ khóc sướt mướt khi tiễn các tù nhân vì đã yêu một  người tù trọng án và cả hai đều tìm thấy tình yêu thật sự. Về sau người ta nhận thấy người phụ nữ nầy lặn lội đường xa đến thăm gặp người bạn tù thường xuyên, dù cho núi non hiểm trở, đường sá khó khăn để đến những nơi gọi là Thung lũng tử thần. Những cặp vợ chồng kết hôn trong tù, họ là các tù nhân tự giác nên có điều kiện giao lưu lén lút với nhau, lễ kết hôn cho các cuộc tình vụng trộm nầy là sự ra đời của các cháu bé cùng với sự trả giá của người bố phải đi nằm nhà kỷ luật ít ra là một tuần lễ. Những lá thư tình, các cuộc hẹn hò nếu bị bắt gặp cũng sẽ bị kỷ luật tùy mức độ nghiêm trọng. Và bây giờ đến lúc chuyển trại phải chia tay. Bảy Đầu rìu rất quan tâm trong việc đưa đón tù nhân, y cho bày tiệc trước lúc lên xe với bài phát biểu ngắn gọn: -Các món ăn nầy gồm xôi, thịt gà và trứng... là thành quả lao động của các anh, đến gần trung ương các anh sẽ được quan tâm hơn, sẽ sớm được cứu xét để đoàn tụ với gia đình, nên trong khi đi đường không được đào thoát, bạo loạn, nếu ai không chấp hành sẽ thiệt thân đến thiệt mạng... đó là chuyên chính vô sản. Thế rồi y hô vang các câu khẩu hiệu và tự vỗ tay như báo hiệu chấm dứt bài diễn văn tiễn biệt. Các tù nhân đã ăn rất ít nhưng gói theo hầu như gần hết.
Những chuyến xe có còi hụ bắt đầu di chuyển, cổng trại bỏ lại phía sau: hình ảnh xác các tù nhân trốn trại đang hấp hối bị hành hạ như bỏ nằm phơi nắng giữa trời, mỗi cán bộ đi ngang qua đấm đá một cái để tỏ rõ sự hận thù giai cấp; những phiên toà lưu động được mở ra thường xuyên: những cổ máy chém với các án tử hình không thương tiếc sinh mệnh con người tận chốn khốn cùng. Chiếc cổng theo thời gian cũng được làm lại nhiều lần, trở thành như nhân chứng ở đây: những kẻ giết người dù có thể sống lâu nhưng rồi lại tự giết mình, các giám thị nào ngoài chuyện hủ hoá cũng có vợ bé khiến xảy ra những vụ đánh ghen ngay tại cổng trại, như trại A30 thuộc miền Trung Việt Nam nầy, sự cố xảy ra đến nỗi các tù nhân đã phải dấu người vợ bé của viên trưởng trại ở đây tại bệnh xá trại giam trước sự truy lùng của bà lớn. Và trước sân cổng trại này, mỗi sáng chiều, hàng ngàn con người đã phải lìa bỏ gia đình, để chờ gọi lao động khổ sai mà khômg biết có ngày về. 
Bên cạnh cổng trại là khu nhà kỷ luật, nơi giam giữ các tù nhân vi phạm nội qui như đánh nhau, đồng tính luyến ái, quan hệ nam nữ nếu bị bắt gặp dù chỉ là thư tín đều bị kỷ luật, hoặc nếu sinh con cái, chuyện này thường xảy ra ở đội văn nghệ, thời hậu quả người bố phải vào nhà cùm ít ra một tuần lễ. Và vào ra nhiều nhất là tội đánh cắp hoa màu, song bị cùm lâu dài là các tội danh tuyên truyền xuyên tạc, âm mưu trốn trại, hay đào thoat bị bắt trở lại.
Cách thức tổ chức của trại giam nào cũng thế, luôn có nhà kỷ luật để trấn áp các thành phần bạo loạn, cũng như đi ra ngoài các qui định. Các nhà giam riêng nầy thường ít khi vắng “khách tù”. Các phòng nhỏ xây thành dãy khin khít bên nhau với bàn cùm luôn có hai ba người ở chung. Thế nhưng các nữ tù nhân có sự quan tâm đặc biệt, họ được giam riêng mỗi người một phòng - chỉ một mình.
Chính sự một mình mới sinh nhiều chuyện, thật thế những câu chuyện rỉ tai nhau từ các tù nhân sau khi thoát ra khỏi loại phòng giam được quan tâm nầy. Kẻ nói có, người nói không về các câu chuyện đầy kinh hoàng xấu xa nơi chốn khốn cùng của con người. Đó là họ bị lạm dụng tình dục hay không, có bị cưỡng bức, hãm hiếp như thế nào... Khiến ai nghe cũng đều tỏ thái độ, nhưng các câu chuyện vụng trộm nơi giam giữ với bao tường thành vây kín chung quanh cùng âm mưu quỷ quyệt của con người rất khó mà tìm cho ra bằng chứng. 
Cho đến khi có sự cố vấn của các sĩ quan đầy miêu duệ thuộc chế độ miền Nam trước đây: một nữ tù nhân tên Hoa, tuổi hai mươi đã tình nguyện giả vờ đánh cắp hoa màu của trại giam. Cô đã mang cả một thúng đậu từ nhà kho và chạy xuống bờ sông gần đó để cất giấu, và thế là các tù nhân tự giác tri hô lên. Đúng như bài toán đã tính sẵn, Hoa bị dẫn độ vào nhà cùm ngay, và không lâu, chính đêm hôm đó một nữ tù nhân không có mảnh vải che thân đã vụt chạy ra cổng trại cùng tiếng kêu lớn: cứu tôi với... chúng hiếp tôi...
Tiếng kêu thất thanh cũng không bằng hình ảnh trên thân người con gái không có áo quần... Tất cả những ai chứng kiến đều bàng hoàng cho dù có một vài cán bộ trẻ lấy làm khoái chí cười mà các tù nhân từ các phòng gần cổng trại quan sát ghi nhận. Sau đó một cuộc điều tra đã được mở ra: việc hãm hiếp những tù nhân nữ đều có âm mưu tổ chức canh gác của các cán bộ với tên tù hình sự nguyên là cán bộ được bố trí phụ trách trông nom nhà kỷ luật, theo lời khai có cả tên trưởng ban thi đua cũng dự phần, y cũng nguyên là một cán bộ tha hoá vào tù, tất cả bọn chúng trên dưới ba mươi tuổi.
Khi cô Hoa đồng ý, chúng đã mở cùm chân cho cô thoả mái, theo lời kể của các tù nhân nữ khác nếu không đồng ý, chúng vẫn cùm và thay phiên nhau hãm hiếp, nếu có tri hô lên thì chúng cho là vu oan bêu xấu cán bộ. Khi cô Hoa chiều xong tên thứ nhất, nạn nhân xin đi vệ sinh và thế là chúng đồng ý ngay, lợi dụng sự sơ hở chủ quan của chúng do nghĩ rằng cô đã không kháng cự, trong khi chúng tán dốc với nhau, Hoa đã chạy thẳng ra cổng chính trại giam... Có một sự cố với bọn cán bộ nầy là chúng toan định tháo lui cho thật nhanh nên đã để cổng ra vào nhà kỷ luật trống he hé không khóa, nhờ vậy mà Hoa đã chạy thoát thân ra đến cổng chính cách đó khoảng hai mươi mét, cô có cầm áo che nửa thân người phía trước để tránh gió lúc ra khỏi phòng cacho, nhưng nó đã bị vướng dây kẽm gai ngay cổng ra vào nên cô vứt lại luôn để thoát cho kịp kẻo chúng chụp lại sẽ khốn nạn vô cùng.
Người ta được biết các tên có liên can đều bị di lý đến các trại khác, riêng những tên cán bộ không còn nhân tính nầy được xử lý nội bộ như thế nào thì không ai rõ.
Thiện Nam đã từng bị giam giữ tại nhà kỷ luật nầy trong vòng một tháng vì lý do bị tình nghi xúi dục bạo loạn, sự việc xảy ra từ một đội trọng án tù chính trị, chàng thuộc đội trọng án khác, mặc dù không tham gia đào thoát nhưng tất cả những ai còn ở lại kẻ bị giam riêng người giam chung có cùm chân tại chỗ. Trong suốt ba mươi ngày giam cứu đó trùng dịp Giáng Sinh, giữa đêm réveillon  mừng Chúa Hài Đồng với khúc khoai mì tiêu chuẩn của buổi chiều để dành lại. Phần ăn nơi nhà kỷ luật nầy gồm một chén cơm và một khúc khoai mì cùng nước muối pha màu từ cơm cháy, song chén cơm ấy thường xuyên bị cắt xén còn hơn phân nửa để chúng chăn nuôi gà vịt quanh nhà kỷ luật gọi là cải thiện, chàng cũng nhận ra có tình trạng nuôi gửi ở đây vì ngày nào khi cho thú ăn, tên tù phụ trách ở đây cũng đọc lên chú gà, chú vịt nầy là của ông A, bà B cán bộ.
Đêm hôm ấy, đúng thật là một đêm Giáng Sinh nơi hang lừa máng cỏ, sương lạnh như hằng đêm vào mùa đông đổ xuống hắt vào khung cửa gió, các tù nhân không thể nằm với sự lạnh buốt, từng đợt sương gió đánh tạc vào như từng cơn gió tuyết thổi vào người... với củ khoai mì nhai hoài đến sợi gân tim của nó cũng nhai nốt và cảm thấy ngọt ngào làm sao. Một tù nhân hình sự nằm bên phòng chàng thì la toáng lên vì quá lạnh, quá rét, quá đói khiến y không thể chịu nổi. Có tiếng từ phòng bên cạnh động viên y hãy cố lên, vì ngoài trời dù lạnh vẫn còn nhiều sao lấp lánh thật tuyệt vời, chúng ta có quyền hy vọng... Nhưng tù nhân đang than vãn lại đáp một cách gọn lỏn: -Những đêm vui nhộn mà trời sáng như thế nầy không có lợi cho ăn trộm... Thiện Nam thấy họ im lặng. Chàng lại nhớ đến câu nói của một lãnh tụ du kích nào đó khi người yêu tỏ tình đêm nay trăng đẹp quá anh ơi... thì ông ta lại bảo sẽ không có lợi cho du kích.
Ngoài trời qua khung cửa gió nhiều sao lấp lánh thật tuyệt vời như đang tưng bừng mừng vui Chúa giáng trần mở ra Sự khởi đầu mới, song nơi đây các tù nhân đa số là tù đào thoát bị bắt lại, phần lớn họ đã mang bản án cao từ hai chục năm đến chung thân, nên tù nhân nào cũng hát vang mừng Chúa giáng sinh, xem đây như lần cuối cùng vì chắc chắn họ phải lãnh bản án cao nhất là tử hình khi ra toà.
Tiếng “Cao cung lên... khúc nhạc Thiên Thần...”, cùng lời hô vang các câu khẩu hiệu đòi dân chủ, nhân quyền... Thiện Nam từng sống chung với các bạn tù nầy, họ rất trẻ hầu hết chưa đến tuổi ba mươi, học vấn chỉ ở bậc trung học, những khái niệm về tự do, dân quyền đối với họ thật cao xa nhưng họ đấu tranh cho con người vì sự hạnh phúc, những người nghèo như bố mẹ, anh em, bà con nơi quê xứ bất hạnh của họ. Họ đáng được hưởng những gì khi sinh ra làm người như ít ra có cuộc sống không bị quấy rầy tại địa phương, những nông dân chân chất nhưng luôn bị sách nhiễu.
Các tử tù bị bắn ngay sau phiên toà lưu động xét xử, họ là những người gốc miền Trung và nổi dậy cũng tại nơi đây. Thiện Nam chứng kiến, trước cái chết các tù nhân trẻ nói giọng rặc địa phương nầy đều rất hiên ngang, thanh thản... Không ai kêu xin. Họ khí khái, dũng cảm. Không thấy ai hô hào học thuyết, tuyên xưng lãnh tụ nào cả. Và đội hành quyết, ngay cả tên trưởng trại, chánh án cũng xuất thân taị địa phương nầy. Họ từ miền Bắc tập kết trước đây, hay từ rừng chiến khu trở về.
Thiện Nam tìm hiểu, chàng biết rằng họ được giáo dục theo truyền thống yêu nước, thương nòi từ một đảng uy tín. Qua các song thông gió bên trên cửa chính ra vào mỗi phòng, các tù nhân thường đứng lên dù chân đang bị cùm để vừa tập thể dục vừa quan sát ra bên ngoài. Nhà kỷ luật của trại giam nầy không giống các trại tập trung khác, chung quanh thay vì bằng tường kín, nó gồm toàn các hàng rào kẽm gai bủa kín trong ngoài, giữa các lớp hàng rào đều có một đường mòn nhỏ chừng nửa mét thả gai xương rồng mọc phủ bên trong và hằng ngày các tù được bố trí công tác nhẹ, họ chui vào đó để dọn vệ sinh, làm cỏ, quét dọn... Nhà giam kiểu nầy giống như chuồng nhốt thú dữ, ngay cả bên trên cũng bao lưới kẽm gai chèn chịt và căn chòi nhỏ với bàn cùm chỉ là chỗ cho thú dữ ẩn thân. Chuyện đánh đập xảy ra thường xuyên, các tù nhân hoặc nằm ngồi co ro bất động, hai khuỷ tay ôm sát vào người hầu tránh những cú đá ngang hông, nhiều khi cả bản súng đập nát trên lưng là chuyện bình thường. Riêng Thiện Nam, mỗi lần bị trận đòn như thế phải gần đến ba ngày sau chàng mới nhai khoai mì thấy ngọt trở lại, trước đó liền mấy ngày đều là vị đắng của lưỡi, còn các cơ trong cơ thể chàng cùng bạn hữu như đều co rút lại hết đàn hồi, không còn cử động được nữa, xương hàm như hết khả năng vận động.
 
Hình ảnh chiếc cổng trại giam trong bóng khuất của sáng chiều, lao động khổ sai cật lực suốt ngày đến đêm trong giấc ngủ chập chờn đầy ám ảnh kinh dị, nhất là từ những cơn đói rung dây thần kinh não, nó giựt giựt trong đầu, rồi một ngày nào đó cánh cổng kia cũng biến mất đến lụi tàn như nó đã từng bị nước cuốn trôi và xây lại, những tù nhân đang di chuyển về những trại xa hơn, địa thế hiểm trở khắc nghiệt hơn, đối đầu với cái chết cận kề hơn, nhưng chiếc cổng trại A30 Cổn Sơn vẫn in hình người Anh hùng Lý Tống như linh hồn sẽ còn mãi đâu đây, Nó là sự bất khuất thông minh can đảm của một con người trong sự mưu sinh thoát hiểm vốn đồng loại đều có, nhưng thực hiện được ước mơ trong hoàn cảnh này chàng phi công Lý Tống đã trở thành huyền thoại một thời. Khi Thiện Nam đến trại giam A30, Lý Tống không còn nữa, chiếc cổng trại với những hàng rào vây quanh nhưng trong các bạn tù mỗi ngày đều nhắc đến Anh, tính thật vui, hòa nhã với mọi người và dù trong tù nhưng phong cách rất lịch thiệp…Một buổi sáng Anh đóng vai trực sinh đi lãnh cơm cho các bạn tù, trên đầu là chiếc thúng cơm thật nặng và sau lời báo cáo Anh đã biến mất an toàn, một cách khôn ngoan của con người cố tìm sự vượt ngục mà nếu bị bắt lại sẽ bị đánh đổi với cái chết trước viên trưởng trại gian ác có tên Bảy Đầu Rìu… Các bạn tù vẫn nhắc mãi về Ông cho đến khi các tù nhân năm xưa đã di lý đến trại Thung Lũng Tử Thần và biết con chim ấy đang lượn trên bầu trời Sài Gòn và thả truyền đơn xuống kêu gọi Tự Do, Dân Chủ cho Việt Nam.   
Về một hướng khác bên hông trại giam, đó là khu nhà văn hoá thông tin gồm nhà truyền thống, lưu niệm, vườn cây cảnh... Từ ngoài nhìn vào là một chuồng khỉ to tướng bao trùm như làm biểu tượng cho cả không gian rộng lớn nầy, có hết thảy khỉ mẹ, khỉ con thành bầy. Trong sân đặc biệt có nhiều loại lan rừng, đủ các loài cây cảnh với hình dáng tự nhiên mang từ rừng sâu về. Và không ai ngờ nơi thư viện của trại giam lưu trữ đủ các loại sách về chủ nghĩa cộng sản. Thiện Nam cũng nhờ qua thư viện nầy mà đọc được gần hết toàn bộ Tư bản luận mà vốn từ ngoài xã hội chỉ xem qua những bài phê bình tóm tắt, có cả Lê Nin toàn tập và các tác phẩm về Engels cũng không thiếu. Nhà lưu niệm thì đầy các mô hình như Suối Lê Nin, hang Pắc Bó, bến Nhà Rồng... bên cạnh những chú khỉ bị ướp khô phơi đầy nhà truyền thống. Khách thăm quan trại giam bao giờ cũng được ban giám thị, nhất là Bảy đầu rìu đưa vào thăm khu đặc biệt nầy. Thường xuyên trực ở khu lưu niệm nầy có hai nam, hai nữ được tuyển chọn vốn có trình độ từ ngoài xã hội, họ canh gác, chăm sóc cùng một cán bộ quản giáo. Mỗi tuần có cả nguyên một đội việc nhẹ phụ giúp lau chùi quét dọn chung quanh, khách thăm càng nhiều thời rác cũng nhiều theo và thường các phái đoàn chỉ thoáng qua rồi đến nhà khách trại giam ăn uống là chính, song đáng chú ý là lần nào dọn vệ sinh cũng thấy đầy bao cao su - capot - rơi vãi quanh các phòng của khu nầy. Các tù nhân rất hài khi thấy nó và bàn về chuyện nầy, một vấn đề quan trọng song tế nhị của con người mà họ đã bị án treo từ nhiều năm qua kể từ khi vào tù. Họ kiềm chế và cười với nhau qua ánh mắt: quả là ở đây có một nét sinh hoạt riêng của văn hoá bao cao su - văn hoá capot. 
Khách thăm quan cũng thường được mời đến xem chuồng lợn cách khu văn hoá không xa lắm, họ sẽ được giới thiệu về thành quả lao động của ban giám thị và trại viên, ôi những chú heo to tướng trên cả tạ hơn chục con khiến ai cũng khen đáo để về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong việc cải tạo con người... Nhưng chỉ có tù nhân cải tạo lâu năm ở đây mới hiểu rõ, đó là những con heo đã nuôi từ khi thành lập trại đến nay, có con hơn năm bảy tuổi, những con nầy có nanh rất dài trông khuôn mặt chúng giống với mặt quỷ như chúng ta thường tưởng tượng, cũng từ đó mà có nhiều câu chuyện thêu dệt từ những chú heo nanh dài mà quỷ đã nhập vào như mỗi đêm chúng nghiến răng thì phao tin là quỷ xuất hiện và nói chuyện với nhau ở chuồng lợn... Con người vốn hiếu kỳ, nên mỗi khi có dịp ngang qua chuồng lợn, họ thích chạy nhanh vào xem những chú lợn ban ngày là heo mà ban đêm là quỷ. Ở trại giam thì bất cứ chuyện gì cũng có thể kể cho nhau nghe hầu qua ngày tháng nhất là những chuyện tiếu như thế, rồi rỉ tai nhau đến cả buổi trưa thỉnh thoảng quỷ cũng nhập nữa, nghĩa là quỷ chỉ đến vào những thời điểm có ít người, giờ mà các tù nhân phần lớn đã bị nhốt vào chuồng, chỉ còn tù tự giác ở bên ngoài. Những phụ nữ phụ trách khu chăn nuôi hầu hết là tù hình sự như giết chồng, cụ thể như cùng tình nhân dụ chồng ra mương rẫy rồi cùng ném đá cho chồng chết, giết chồng để trả thù đàn ông và nhiều trường hợp hãm hại đàn ông khác cũng như cố sát trẻ em để chiếm đoạt tài sản... Câu chuyện quỷ xuất phát từ chuồng heo nầy nhiều nhất, và khi được hỏi có bà nào thấy quỷ chưa, một phụ nữ to lớn sắc nét, còn duyên đẫy đà trả lời nhanh như bắt ngay hồn người khác: -Chình em là quỷ đây... Anh nào muốn biết... Sẽ biết.
Bên dưới các khu nầy là dòng sông uốn lượn bao quanh với nhiều bóng cây cổ thụ lâu năm thật mát mẻ, viên phó giám thị ở đây đã cho xây dựng một căn chòi có hình chiếc ghe với đầy đủ tiện nghi để mỗi trưa y xuống nghỉ ngơi, mặc dù được thiết kế ở vị trí kín đáo nhưng từ xa trên các đồi bên kia dòng sông có thể trông thấy nó như một chiếc thuyền trên cạn. Y thường xuyên an nghỉ ở đó, có tù tự giác lo phục vụ chu đáo, và dù là buổi trưa nhưng vẫn có người bị gọi đến làm việc hay xin làm việc riêng để nêu vấn đề gì đó. Trong số những người hẹn gặp rồi lui tới luôn mỗi trưa khiến nhiều người để ý, đó là một phụ nữ đã giết chồng và tự giới thiệu: em là quỷ đây. Mọi sự đến tai Bảy đầu rìu, vốn quen bắt nóng ông ta đã tóm gọn dâm phụ với tên giám thị đang trong cảnh trụy lạc trên “du thuyền chòi”. Viên giám thị phó nầy cũng có tên là Hợi, trong tiếng Việt có nghĩa là heo, theo các tù tự giác thuật lại: khi chộ cảnh đấy, ông Bảy la toán lên, dù con mắt ti hí rất nhỏ nhưng nở lớn lên màu máu đỏ: -Đúng mày là lợn chỉ vỗ béo rồi làm thịt... Các tù nhân chỉ được biết y bị đưa về nguyên quán ở miền Bắc. Cũng không ai biết sẽ có bao nhiêu người Sẽ Biết như lời người dâm phụ.
Khu lưu niệm cùng khu nhà lợn đều xây dựng toàn lá tranh vách nứa, rất gọn gàng song thường xuyên phát sinh nhiều bọ cạp khiến heo con không thể chịu nổi nên được nâng cấp thành mái ngói, nền xi măng, còn nhà văn hoá vẫn vậy, từng dãy phòng với các mái tranh được cắt xén công phu, cùng với các cây kiểng đầy sự uốn lượn do chính bàn tay của các nghệ nhân nay vào tù chăm sóc không ngoài sự tượng hình theo chữ Hán như Tâm, Tài, Nhật, Nguyệt, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín... khiến thoạt trông thật bắt mắt đến nỗi mỗi chiều sau giờ lao động trở về, ai nấy đều trong mệt mỏi song cũng muốn nhìn qua dù chỉ là sự mô phỏng cảnh quang, ít ra sự làm hề của những chú khỉ cũng mua vui vào những giây phút cuối ngày với biết bao trần ai khổ nhục trong một ngày.
 
* *
     
Đối diện với cổng trại là sân vận động, có sân khấu lộ thiên, nơi tổ chức những buổi trình diễn văn nghệ mỗi tháng một lần. Tù nhân bị bắt buộc phải tham dự, dù là đau ốm vì theo tuyên bố của Bảy đầu rìu: đó là sinh hoạt tinh thần không thể thiếu được trong việc nhận thức của con người. Thế nhưng thâm sâu chỉ là những cuộc tẩy não nên những tù nhân nào trốn ở nhà đều bị qui kết vào tội chống đối. Điều đáng ghi nhận là không lần biểu diễn văn nghệ nào mà không có tù nhân trốn trại dù cho sự canh gác rất chặt chẽ và thường là bình an.
Trại giam nào cũng tổ chức riêng một đội văn nghệ, gồm phần lớn là các thuyền nhân bị bắt lại. Họ chỉ lo tập dợt trình diễn những bài hát gồm toàn của thời chiến tranh, kể cả các đoàn kịch nghệ từ bên ngoài xã hội được mời đến với nội dung: trong hận thù và trả thù.
Người ta cũng nhận thấy Mộng Lành, một nữ thuyền nhân và là nạn nhân trong vụ Trần Xuân cũng có mặt trong đội văn nghệ thuộc trại A30 nầy . Như thế là cô phải vào tù sau lần được Trần Xuân thả ra và buộc tiếp khách, bây giờ theo nhiều người được biết sau lần ra toà với Trần Xuân bị tử hình, còn cô với bản án tập trung vô thời hạn. Tù nhân trong đội văn nghệ mỗi người trong ý hướng khác nhau, kẻ muốn đốt ngắn thời gian để về đoàn tụ với gia đình, người khác cốt tránh lao động khổ sai, kẻ lợi dụng sự rảnh rỗi sau các giờ tập luyện mà học ngoại ngữ... song cũng lắm kẻ si tình cố đấm ăn xôi vào đây vì đội văn nghệ bao giờ cũng tuyển các tù nhân nữ rất đẹp, có người không biết tí gì ca hát chỉ xin được dù là kéo màn. Cụ thể có một cán bộ cộng sản khi thụ án chỉ xin được vào đội văn nghệ dù đồng chí không có năng khiếu gì về văn nghệ cả, nên nguyện vọng là giữ đạo cụ hoặc đảm trách việc khói lửa, kéo màn cũng tốt... Và nhờ có lý lịch nguyên là đảng viên, do đó được giao phụ trách an ninh, một chức vụ rất quan trọng để canh chừng phát hiện các tù nhân có âm mưu trốn trại. Thế là mộng ước của anh ta đã thành sự thật, tù nhân nầy đã có con với một nữ đầu bếp trong đoàn và một chú bé trai thật kháu khỉnh chào đời trong trại giam mà ai đó từng qua trại A30 nầy đều rõ. Sau một tuần kỷ luật để trả cái giá cho việc lên chức cha, anh được chuyển sang đội khác không còn tự giác nữa. Các tù nhân kháo nhau về anh, và có dịp yêu cầu đồng chí phát biểu cảm tưởng, tù nhân nầy tỏ ra rất lạc quan nguyên văn: -Cảm ơn Đảng đã cho tôi một mùa xuân, suốt cuộc đời theo Đảng nay nhờ lý lịch mà được vào đội văn nghệ tôi mới thấy được mọi thứ, khi kéo màn tôi giả vờ leo lên sửa dây kéo và xem được tất cả... thật tuyệt vời, ôi xin cảm ơn. Và không hổ thẹn y kể lại mọi chuyện cho ai nấy cùng nghe.
 Riêng các trại chỉ có tù nhân nam, đội văn nghệ gồm toàn thanh niên trẻ đẹp trai, bọn chúng giả gái nhiều khi duyên dáng còn hơn cả phụ nữ chính hiệu. Và thế gian lại như thị, những vụ đánh ghen còn dữ dội, và yêu nhau nhặng xị giữa các đấng mày râu, các tù nhân gọi đó là pê đê thời cuộc, nghĩa là nó không phài do gene, nhưng xảy ra trong tình huống thiếu phụ nữ. 
Bảy đầu rìu rất quan tâm đến truyền bá tư tưởng và bảo vệ phụ nữ, theo lời các thuộc cấp tán dương, y không bỏ sót một buổi diễn tập nào. Các nữ tù nhân biết thế nên rủ nhau ăn mặc hớ hênh khiến ông càng khom người xuống mở mắt thật lớn mà kiểm tra các vũ nữ mỗi lúc những điệu múa dồn dập tung cả quần áo lên. Cả trại đồn ầm lên về chứng thị dâm nầy của y, và các tù nhân lại thích cách thế mà ông duyệt các vũ nữ gấp nhiều lần hơn là xem văn nghệ, vì thật sự nghệ thuật chỉ có ở những nơi con người diễn xuất phát tiết ra hết từ sinh năng của chính mình.
 
Đoàn xe di lý tù bắt đầu chuyển bánh chầm chậm trước khi vượt ra khỏi khu vực rộng lớn của trại giam, bỏ lại phía sau với những hồi còi hụ inh ỏi, dãy nhà kho và chế biến lương thực với từng ngăn chứa các loại hoa màu khác nhau: ngô, khoai, thóc, lúa, đường, mật, đậu, chuối... do chính các tù nhân làm ra. Nhà chế biến có không gian rộng hơn cả với hàng chục cối xay lúa bằng tay theo lối cổ truyền để bóc vỏ lúa của người Việt Nam, mỗi lần đổ vào từng mẻ khoảng nửa thúng lúa rồi xay dần. Tù nhân trọng án hoặc các sĩ quan cao cấp còn trong giai đoạn quản chế chặt chẽ được sắp xếp vào những công việc nầy. Có một đội thường trực chuyên xay lúa, dã gạo hằng ngày để cung cấp cho toàn trại, những công việc mà nếu có máy xay chỉ giải quyết trong vòng vài tiếng đồng hồ, thời ở đây phải cần đến ba bốn chục tù nhân làm việc thật vất vả suốt cả ngày không ngơi nghỉ. Thậm chí có ngày không đạt chỉ tiêu vì các cối xay hay trục trặc, tù nhân phải bị phạt và hình thức cao nhất của loại nầy là không cho tắm rửa vào cuối ngày. Thế là các tù nhân chỉ còn biết phủi bụi cám theo tiếng quát của quản giáo vào đội ngũ trở về phòng giam, một đoàn người lếch thếch mệt mỏi, bột cám bám trắng trên tóc cùng mặt mày như trắc lên một lớp mặt nạ bụi trần.
Họ đi qua chuồng khỉ và có người ví von những chú khỉ còn sạch sẽ hơn tù, chúng còn yêu nhau, vuốt ve cho nhau nữa khiến ai cũng nghĩ về gia đình và quên đi tất cả.
Đêm hôm đó quả là một đêm không yên lành, dù mọi người đều cố vơ vét dùng nốt số nước dự trữ trong phòng riêng để làm vệ sinh, nhưng các thứ vỏ lúa, bột cám, bột mì tạo nên sự khó chịu mà càng gãi càng ngứa. Song rồi ai cũng thiếp trong mệt nhoà và một ngày mai lại tiếp tục không xay lúa cũng bồng em: đập đá, chẻ đá, khiêng đất, khuân cây từ rừng sâu về xây nhà... Mọi công việc tưởng chừng có kinh qua sự đoạ đày mới hiểu hết phần nào thân phận nô lệ xưa. Song thời cổ Ai Cập còn có các kiến trúc sư để lưu lại những công trình như ngày nay, còn các thiết kế sư của giai cấp vô sản nếu có mất là mất cái quần lót, nên nếu có còn có lẽ cũng chỉ còn cái quần đã rách tả tơi. 
 
Đoàn xe phóng nhanh với những hồi còi hụ liên tục, những nơi mà mỗi con người như đang nhớ về bao ký ức vừa trải qua, giọng nói đầy ưu ái của các viên giám thị ở đây: các anh có đầy đủ chén bát để lãnh thức ăn vào những ngày lễ lớn như thế nầy hay không... Mà thực tế chỉ vài miếng thịt heo mỡ khiến ai nấy cũng buồn cười, với người Á đông đôi khi những điều không nói lại tế nhị hơn. Trại giam họ vừa rời khỏi vốn giam giữ các sĩ quan tập trung thuộc chế độ miền Nam trước đây cao nhất là cấp đại tá, cũng có các viên chức cao nhất thuộc hàng tỉnh. Thiện Nam nhớ mình đã gặp lại hai viên chức nguyên là Chủ Tịch Hội đồng Tỉnh thuộc miền Trung. Vị thứ nhất ngày trước áo mão bảnh bao thế nào thì ngày nay tàn tạ làm sao, cũng áo mũ nhưng là áo chắp vá từ bao cát, nón lá phai màu, có cả râu nhưng là râu lởm chởm, nước da hồng hào ngày nào và chỉ tiếp những ai có hẹn trước, còn nay xanh xao như tàu lá cộng thêm cái sợ hãi đến mức không còn nhận ra con người. Ông nhìn ra Thiện Nam ngay, vì vị nghị viên hay đến gia đình chàng để vận động trong những dịp bầu cử. Nhưng cũng vừa nhận ra ông liền thốt lên: -Tôi đã quên hết chuyện xưa rồi, anh còn nhớ gì không, thôi đừng nhắc lại quá khứ, hãy để cho tôi yên.  Không biết vị Chủ tịch sẽ thọ bao lâu vì trông ông sa sút tinh thần đến thảm hại, đầy ám ảnh sợ hãi cùng bệnh tật. Đó là vị Chủ tịch Hội đồng Tỉnh Khánh Hoà.
Vị thứ hai, Chủ tịch Hội đồng Tỉnh Phú Yên, trông ông nhanh nhẹn như ngày nào và mọi sự nhờ vào khoa nói của mình, cụ đã chuyển nghề thành Thầy thuốc Nam, làm trưởng phòng thuốc Đông Y của trại giam và sự sợ hãi trong ông khiến ta không hiểu được con người tại sao mau thay đổi đến thế. Có cả viên Thiếu tá Trưởng ty cảnh sát của vùng nầy tên Lãm mà ánh mắt của y nhìn các bạn tù như ánh đèn pha truy quét kẻ thù, ai cũng sợ ông và cố tránh xa để khỏi mang hoạ vào thân, những bản báo cáo đầy thêm bớt của y khiến nhiều người bị cùm, bị đánh đập gần chết.
Có cả “con hùm xám” của miền Trung, Nguyễn Liệu ngày xưa ngoài đời hùm hụp đấu tranh làm sao thì nay trong tù cũng vậy, ông chịu khó làm việc để không ai còn để ý, nhiều bạn tù gốc miền Trung đều kính trọng ông, tuy nhiên cũng có một số các sĩ quan luôn chống lại ông, con người một thời huyền thoại về sự khẳng khái chống tham những và nay huyền thoại này có còn mong ước đựợc bao lâu… 
Quan điểm của Thiện Nam, Họ là những con người rất đáng kính ngày nào, nhất là đối với gia đình chàng, nhưng nay quả như câu hỏi của một lãnh tụ Á Đông nào đó khi tuyển dụng nhân sự: Nó đã kinh qua nhà tù hay chưa. Với bao sĩ quan khí khái và các tù nhân lương tâm can đảm ít ra là trong liều thuốc nhẫn nại để luôn tìm sự khởi đầu. Song với những con người kia, có lẽ đã có sự kết thúc mà sẽ không bao giờ có sự khởi đầu.
Những bài học nầy với Thiện Nam, nó trả giá quá đắt mà không đáng để phải học về tính thể của con người, một khi nó được phơi bày về những cái không thiện.

XVIII
THUNG LŨNG TỬ THẦN
 
Họ gồm các Bộ trưởng, Thứ trưởng và các Sĩ quan cao cấp thuộc chế độ miền Nam đã bị sụp đổ, có cả tù trọng án chống lại chế độ hiện hành. Họ được dẫn độ từ khắp nơi về đây: Thung Lũng Tử Thần, và trước hết tập trung trong hội trường lớn, viên giám thị trưởng thay lời chào đã phát biểu: -Các anh có nghe rõ tôi nói không... y cũng làm mọi điệu bộ giống như cách lãnh tụ vĩ đại hỏi quần chúng khi phát biểu... đến đây chỉ có hai con đường: một là cải tạo tốt để về với gia đình, hai là ra lô sáu, nghĩa là ra nghĩa trang nằm. 
Sau đó là những bài thuộc lòng của y về chống đế quốc, tay sai và đặc điểm: ai không cùng chiến tuyến đều là thằng hết. Các tù nhân được thăm quan trại giam nhất là các phòng kỷ luật, như lời giới thiệu của các giám thị khi đến khu nầy: ở đây, phải nói thẳng với các anh có nhiều loại cải tạo lắm, bằng nhiều cách để trừng trị những ai còn tư tưởng tiếp tục chống đối... Không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, bây giờ trong tiết xuân, nhưng không khí nơi dãy phòng giam riêng nầy có mùi thật tanh và lạnh.
Quang cảnh trại giam cũng giống như nhiều nơi giam giữ khác, chung quanh nhà tù đầy những hàng rào kẽm gai, bên trong chia thành nhiều khu nhỏ với các tường thành và lưới sắt bủa kín, cũng có nhiều hoa và nhà văn hoá thông tin do các tù nhân chăm sóc rất đẹp. Đặc điểm trại giam nào từ văn phòng  làm việc của giám thị trưởng đến các cổng trại và nhà lưu niệm đều có khỉ, thậm chí cả nhiều khỉ ướp hoặc phơi khô.
Sau một ngày làm các thủ tục khi đến trại mới như học nội qui, thăm quan trại giam, viết tự khai về cá nhân và các tờ cam kết, họ được phân tán về các tổ đội. 
Buổi chiều về các phòng giam, Thiện Nam chứng kiến quang cảnh thật lạ thường: hành lý của các tù nhân đều trong tư thế sẵn sàng trên đầu nằm và dưới chân, họ chuẩn bị đi Mỹ. Người nào cũng hi vọng sẽ có người Mỹ đến đón họ trong đêm nay... ngày nầy qua ngày khác, sự việc diễn ra trong nhiều tháng như vậy, sự ám ảnh cao độ đến mức giữa khuya khi nghe có tiếng máy cày chuyển động, hết thảy đều thức dậy uống trà và chờ người Mỹ rước.
Với cách nhìn của Thiện Nam, đây quả là một hội chứng Mỹ quốc, đêm nào cũng trong hy vọng và sáng ra người nào cũng ngáp dài trên cánh đồng với mồ hôi ướt đẫm cả người . Các tù nhân phải lao động khổ sai cật lực trong đói khát, lưỡi lê cùng nòng súng bên cạnh. Hội chứng nầy diễn lại thường xuyên trong ước mơ và hy vọng, thật sự nó không xảy ra như phương cách các tù nhân đã suy nghĩ, người Mỹ có thể cứu vớt đồng loại bằng nhiều giải pháp khác. Nhưng đây quả là một tín hiệu gởi đến nước Mỹ: niềm hãnh diện về lương tri - dù nơi vực thẳm tối tăm nhất của cuộc đời, ngoài lời cầu nguyện, họ đã chạy đến người Mỹ không vì sự giàu có hay tìm mua vũ khí, nhưng do tính hào hiệp, lòng nhân ái mà trên lĩnh vực lý trí họ rất tin các bạn sẽ  hành động.
Bên trong cũng như bên ngoài trại lúc nào cũng có nhiều người đang chạy lăng xăng một cách tích cực, họ cũng mặc quần áo tù nhưng tác phong rất giống những người cán bộ cộng sản, mọi chuyện đang xảy ra bình thường, nhưng đều bị quan trọng hoá giống như xảy ra trên chiến trường đầy dầu sôi lửa bỏng. Một thế giới không vận hành theo những gì họ nghĩ: chỉ có ta mới động. Họ là những người hồi chánh, nghĩa là những cán bộ cộng sản về qui hàng với chế độ miền Nam trước đây. Khi cộng sản nắm quyền, họ bị kêu án về tội phản bội, song trong trại giam, xét về lý lịch phần lớn họ vẫn hồng hơn, được tin tưởng hơn những người khác. Kẻ làm trưởng ban thi đua, trật tự, đội trưởng.v.v. Trong nhóm nầy, họ bảo vệ lẫn nhau rất chặt chẽ, và cũng có người được anh em kính trọng, số rất ít nầy họ có cuộc sống rất nhân cách và tình người, không hợp tác với bọn cai tù... Sau giờ điểm danh chiều thường các tù nhân hay ngồi trà lá tán gẫu, riêng nhóm nầy thu mình rất kỹ như chỉ ra khỏi mùng khi cần thiết.
Nhóm hồi chánh dường như không mấy ai trông chờ người Mỹ, ít ra là sự thể hiện ở bề ngoài, họ thận trọng chờ đợi và không phản đối, với tuổi đời đều cao, kinh nghiệm như luôn hướng dẫn họ: trên đất nước Giao chỉ nầy chuyện gì cũng có thể xảy ra và không xảy ra.
 
XIX
NHỮNG BƯỚC CHÂN  
TRÊN THUNG LŨNG TỬ THẦN
                             
Nếp sống mới: trên hiện trường lao động, nếu có con ếch nhái nào chạy ngang qua, đó là món quà tặng của ngày hôm ấy. Các tù nhân chỉ kịp nướng sơ sài và bỏ vào miệng len lén nhai, dù thật vội vã kín đáo, nhưng nếu bị quản giáo bắt gặp sẽ bị giật lại, thậm chí bị móc ra khỏi miệng với bài giảng đạo đức cách mạng: nào đã học nội qui chưa, ăn như thế là không hợp với nếp sống văn hoá mới, kém văn minh. Các tù nhân vẫn thầm lặng, cúi đầu, nhưng trong ý nghĩ mỗi người: con người bỏ đói con người, chỉ vì khác biệt chính kiến, có là văn minh? Một người sắp ngã qụy vì thiếu lương thực song bị móc ra khỏi miệng miếng ăn đang ngậm, hành vi đó có được gọi là nếp sống văn hoá mới? Hay chỉ là hành động nhằm triệt hạ con người để trả thù. Hằng ngày cho dù các tù nhân có nấu nướng đúng giờ cùng nơi qui định, các cán bộ trại giam cũng tìm đủ mọi cách để đạp đổ thức ăn của tù nhân như khi hồi còi chấm dứt giờ nấu nướng vừa thổi lên, chúng đã chờ đâu đó sẵn sàng chạy vào đạp đổ hết thảy nếu ai đó chưa nhanh chân thu dọn kịp thời. Những cây rau dại, các cánh lá rau má, những cây cải trời... đều bị móc ra từ trong túi áo, lưng quần của các tù nhân trước khi vào cổng trại. Tất cả đều đi ra bằng tay không, đi về với tay không và chân không. 
Con người hay bóng ma: đặc điểm của trại Thung Lũng Tử Thần là những ai mới đến sẽ nhận thấy ngay nước da của tù nhân nào cũng xanh mét, họ ngồi thành hàng ốm o, co rút người lại chờ xuất trại để lao động khổ sai. Những đoàn người lúc rời khỏi trại giam xếp thành đoàn đội và di chuyển chầm chậm cách xa nhau, trông họ còn ra con người, nhưng lúc trở về cũng đoàn người đó, trong sự kiệt sức rã rời, chân đi như kẻ say... họ đã bị vét hết sức lực trên các cánh đồng và đang rán lê bước về trại giam. Những tù nhân đáng thương ấy không còn nhìn ra người nữa và hằng đêm thường xuyên có tiếng kêu cấp cứu từ các phòng giam vì ngộ độc thức ăn như  say khoai mì, say nấm, say những gì họ đã ăn phải để qua cơn đói. Thiện Nam chứng kiến, các tù nhân xin đi cầu và họ ngồi ngay chỗ đại tiểu tiện moi khoai mì sống và hãy còn non rồi bỏ vào miệng nhai ngon lành... Tất nhiên sau đó là các chứng ói mửa, tiêu chảy. Các tù nhân dường như đều sợ mùa đông, cái đói khủng khiếp làm buốt cả xương da và tê liệt đầu óc con người. Hầu hết người nào da cũng săn lại, nứt nẻ, có khi chảy  nước vàng... Thiện Nam và các bạn hữu có cùng suy nghĩ: không biết trên thế giới có nhà tù nào cho tù nhân ăn no hay không, riêng ở Châu Á, câu trả lời có lẽ là không, ở nước Nga cũng vậy, và nếu có là nhà tù ở nước Mỹ? Quả đúng thật như vậy, thì đó là niềm hãnh diện cho các công dân Hiệp Chủng quốc.
Con người ăn cỏ: các sách sinh học hướng dẫn: loài nhai lại có con bò ăn cỏ, nhưng ở đây cả con người cũng thèm cỏ non, nhiều tù nhân bị giam riêng lâu ngày thiếu chất tươi, được dịp ra ngoài, thế là trên đường đi hỏi cung trở về hay giả vờ vấp té ngã để ăn cỏ non, rồi uống tạm nước mương cho qua cơn khát. Người ta chứng kiến các tu sĩ cũng vấp ngã như thế. Các tù nhân còn khoẻ mạnh và lao động bên ngoài trại giam, khi đội ngũ của họ đi ngang qua đám rau lang, rau muống nào... thì dường như luống rau ấy không còn đọt non nữa. Ai cũng vội lặt lặt, phủi phủi rồi bỏ vào miệng nhai, cả Thiện Nam cùng các bạn hữu trong tù của chàng đều nhận thấy mắt mỗi người như long lên và sáng hơn, mặc cho tiếng la ó của quản giáo, quản chế về sự phá hoại hoa màu, thậm chí có tù nhân quá chậm tay bị đánh đá vào người, nhưng cả một tập thể đều ăn nhơ như thế không thể móc ra hết, mà chỉ có thể họp kiểm điểm, rút kinh nghiệm. Và không có cuộc họp nào mà không có nhiều người ngủ gật. “Hãy bắt chúng họp thật khuya” -Thường là lời của các quản giáo. Thời gian trở thành thứ vũ khí để trừng phạt.
Pháp trường: nhiều phiên toà lưu động, nhiều án tử hình và lệnh hành quyết ngay tại trại giam. Các phiên toà nầy thường xảy ra nhanh chóng, như buổi lễ tế Đảng đã được chuẩn bị sẵn nào tuyên bố khai mạc, đọc cáo trạng, thẩm vấn bị can, lời nói cuối cùng và trong lời tuyên bố trịnh trọng: bị can không thể cải tạo được nữa. Mọi người biết rằng phiên toà sắp bế mạc, và trường bắn sẽ mở ra... Các tù nhân trốn trại hoặc bị bắn chết ngay tại chỗ, nếu bị thương dù trong cơn hấp hối, họ bị mang ra phơi nắng ngay trước cổng trại... đặc biệt mỗi cán bộ khi đi ngang qua đều đấm đá một vài cái thật mạnh gọi là tỏ lập trường giai cấp. Nếu còn sống, hầu hết các nạn nhân nầy đều mang chứng bất bình thường về tâm sinh lý: khủng hoảng đến điên loạn. Người Việt Nam có phong tục thờ cúng Tổ Tiên, Ông Bà và mỗi năm có nhiều gia đình đến chục cái giỗ, còn nơi trại giam nầy vào những năm cao điểm, các phiên toà lưu động mở ra liên tục. Thiện Nam đã chứng kiến nhiều sự cố xảy ra trong các buổi lễ tế đảng đầy oan nghiệt nầy, và có lần khi các tử tù được chở từ khu tử hình đến trại giam, nơi họ đang thụ án và trốn trại, các tử tù tạm thời được nghỉ tại nhà văn hoá cho đến giờ ra trường bắn sát bên trại giam, những thủ tục cuối cùng đã diễn ra không suôn sẻ, khi các tử tù vẫn cứ ngậm cứng miệng không cho nhét quả chanh vào miệng và còn hô vang các câu khẩu hiệu khiến các tù tự giác đều nghe thấy rất rõ, thế là đã có một cuộc ẩu đả xảy ra dù cho các tử tù đang bị cùm tay chân rất kỹ. Người ta cũng chứng kiến trong số các tử tù có cả một cựu sĩ quan binh chủng Hải quân, từ án tập trung trốn trại lên chung thân, và đào thoát tiếp không thoát được lên tử hình... nghe nói ông đã không xin tha tội chết. Điều oái oăm chính ông là người từng mang cờ xí cùng nhiều người ra đón đoàn quân cộng sản tiến vào thành phố biển 
Nha Trang, lúc đó ông đã rời quân ngũ và làm nghị viên, song với lệnh tái tập trung, nghĩa là những người dù rời khỏi quân đội nhưng với cấp bậc thiếu tá trở lên đều phải vào các trại tập trung. Tất cả đều được chôn cất và chôn rất cạn để mọi người ngửi thấy mùi xú uế mà làm gương.
Nội qui & Nội qui: từ khi các tù nhân bị bắt vào trại tạm giam, cho đến khi chuyển sang các trại lao cải, lúc nào cũng được nhắc nhở học nội qui. Nếu còn ở các trại tạm giam thì mỗi sáng ê a hết gần nửa buổi.
Nhưng riêng ở trại Thung lũng tử thần người ta thấy các tù nhân xếp thành hàng đứng trước bảng nội qui to tướng giữa sân trại giam gọi là học tập nếp sống văn hoá mới; thật sự họ bị phạt vì các vi phạm khác nhau: trên tay mỗi người đều ôm các món mà họ đánh cắp từ tài sản hoa màu của trại giam như ôm quả dừa vì hái dừa trộm, bưng cả thúng đậu hay vác cả quầy chuối vì lén đốn hạ những thứ ấy... nhiều người ngất xỉu vì đói lả giữa trưa nắng và tất nhiên không được đội nón mũ gì hết với nhiệt độ thường trên bốn mươi độ C. 
Một hôm các tù nhân đang bị kỷ luật nầy chứng kiến các quản giáo và quản chế chạy trối chết tìm chỗ trốn, thậm chí  chui cả rào... sau đó là tiếng quát tháo cùng sự xuất hiện của cái ban trưởng trại, y la hét thật to tuyên bố tha cho những con người đang học nội qui, rồi chửi bới cấp dưới là ai đã quyết định có sự đối xử với tù tồi tệ đến thế... sẽ còn đâu sức khoẻ mà chúng cải tạo tiếp. 
Song các tù nhân đang có mặt trong các phòng của trại giam lại một phen hú vía, mất hồn, tưởng rằng sắp có sự khủng bố gì đây vì họ không biết cán bộ cấp dưới đang hoảng hốt chạy trốn cấp trên. Và cấp trên chạy trốn cấp cao hơn nữa, đó là nét đặc thù của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Người ta cũng chứng kiến: mỗi chiều có một Linh mục tù nhân cầm gậy chạy khắp trại giam, trạc ngũ tuần, mọi người biết ông là một tuyên úy trước đây. Trong tù ông luôn phấn đấu từ đội trưởng lên đến trưởng ban thi đua, ông cầm gậy chạy và thọt vào các góc tường để xem có ai đó đào khoét chuẩn bị trốn trại. Xuân Thụy chiều nào cũng làm như thế và các tù nhân thấy bóng ông là sợ vì họ biết rõ ông không tha ai một điều gì nếu biết về họ: với cộng sản, những ai không cùng đường là có tội. Nên tất cả đều có thể báo cáo dưới mắt ông. Cũng may, trong số hàng trăm Linh mục ở tù, tập trung tại đây đến vài chục, chỉ có một mình ông là đi trên con đường: giương cây gậy đập anh em. Thiện Nam cũng như nhiều anh em tù khác khi mới đến được giới thiệu, nhất là sự rỉ tai về Linh mục nầy, ai cũng cố xem rõ mặt vị Linh mục nầy có gì khác người, song ông cũng có hai mắt, một lỗ mũi, cái miệng, hai tay, hai chân... khuôn mặt tròn, tuy không được mập như các Linh mục khác; quả là một con người thật sự như bao con người khác, nhưng cái lòng dạ kia thì không ai biết.  
Có một cựu trung tá, trưởng ban thi đua: ai cũng khiếp tởm nhưng lại không sợ, vì y thật sự xét cho cùng chỉ là con người ham sống như mọi hữu thể mà sinh sợ hãi. Nó không đội lốt, bên dưới lớp áo, đó là con người thật sự, con người đáng thương và ta luôn có thể tránh được, cũng như y luôn tránh những nơi mà y biết chắc chắn có vấn đề phải báo cáo. Trung tá Mai, một cái tên không thể quên được với các tù nhân từng trải qua trại Thung Lũng Tử Thần. Và có một Đại tá khi vào trại giam lại “chuyển ngành”, các sĩ quan đã xếp thành hàng trịnh trọng chào lúc ông lao động trở về, họ đồng loạt hô lớn: -Chào Đại tá đã chuyển ngành. Chắc là Đại tá Tí đã báo cáo anh em về những vấn đề gì đó. Còn viên chức thuộc chế độ miền Nam bị các bạn tù đánh nhiều nhất có lẽ là Dân biểu Qúy Phong, vì theo các tù nhân: ông làm quá nhiều những điều xằng bậy trong tù. Tất cả dưới cái nhìn của Thiện Nam - nó đều đáng thương, họ chỉ là nạn nhân của một cơ chế giam giữ không nhằm chữa trị con người mà chỉ cốt triệt hạ con người.
  
XX
HỮU THỂ 
THỂ HIỆN TÍNH THỂ 
 
Tư sản mại bản: Họ là những nhà kinh doanh thuộc miền Nam trước đây, khi cộng sản miền Bắc cai trị miền Nam, họ bị kết án là tư sản mại bản, kẻ hai mươi năm, người mười năm.v.v. Những thành phần án cao vào hàng tỷ phú đều có mặt tại Thung lũng tử thần, trông người nào nước da vẫn còn tốt, mặc dù đã qua nhiều năm trong tù, chỉ duy nhà tư bản họ Lý bị các tù nhân khác tạc nước sôi, may tránh kịp, suýt nữa không còn da mặt, nhà tư bản nầy rất keo kiệt với bạn tù, nhưng lại thường xuyên đút lót cán bộ để được an nhàn, khỏi phải lao động khổ sai. Đặc điểm của các nhà tư sản ở đây là không có người nào mà không hối lộ để được yên thân. Tất nhiên tùy theo sự liêm sỉ mà cách thể hiện có khác nhau, như nhà tỷ phú họ Lưu người được lòng anh em nhất, ông chỉ cho khi chúng xin và thường xuyên giúp đỡ các tù nhân khác về thuốc men. Mặc dù đã ngoài sáu mươi, nhưng vẫn đi lao động như anh em, còn hầu hết đều tìm cách chạy chọt để núp bóng dưới hình thức nầy hoặc hình thức khác, nghĩa là trong tù họ vẫn giàu có hơn, cũng như ít vất vả hơn những người khác. Ông tỷ phú họ Lý cất giữ lương thực như chính ông thường nói phải dự phòng sáu tháng, nên lão luôn xin giữ kho vì các giỏ thăm nuôi của ông bao giờ cũng chiếm nhiều chỗ nhất trong đó. Hằng ngày ông dùng bữa, thức ăn sắp xếp theo từng lớp, nếu có ai đến xin giúp đỡ, ông vui vẻ, nhưng chỉ cho lớp trên bao giờ cũng là món dưa cải hoặc củ cải muối, còn bên dưới, ông nói: dùng cho người bị tiểu đường, thật sự chỉ có ông và Trời biết... Đặc biệt có nhà tư bản điện ảnh đã trở thành thầy thuốc nam Trương Dĩ với những món thuốc đặc trị cho các tù nhân trong nhà tù cộng sản mà ông đã góp phần bào chế như Xuyên Tâm Liên, Khung Chỉ... nhiều buổi sáng chỉ cần đi khám bệnh xong, khỏi phải điểm tâm vì người nào và bất cứ bệnh gì cũng được phát một nắm thuốc nam loại nầy đến no luôn. Có nhà tư sản tên là Hương xin được làm tạp dịch nấu nước phục vụ cán bộ, và hôm nào có miếng cơm cháy, khoai mì nám đen lại khen ngon ráo riết. Tất cả đều thay đổi từ khi con người bắt đầu bước vào trại lao cải, nhưng không ai rõ chính mình đã bị biến đổi tự bao giờ. Ở đây, Tôi đang sống và bằng mọi cách Tôi phải sống, cũng không ai còn nghĩ cách làm giàu như ưu thắng liệt bại; một số anh em tù thích ngồi bên họ sau những giờ lao động, ít ra cũng được mời hút thuốc, riêng họ Lý thì trong hộp thuốc mời của ông ta có hai ngăn, một ngăn thuốc ngon chính hiệu, còn ngăn kia để mời là thuốc có trộn với bột cưa tán nhỏ. Giờ đây họ nói nhiều về gia đình và thật sự thâm sâu trong lòng mỗi người đều muốn được sum họp bên mái ấm gia đình hạnh phúc mà vốn họ đều có gia đình, nhưng dưới cái nhìn của Thiện Nam theo cách mô tả về gia đình của họ: gia đình chỉ là nơi để phục vụ họ, chứ không phải là nơi mình được phục vụ hầu mang lại hạnh phúc... vì người nào nếu không vợ hai, vợ ba, cũng ăn chơi trác táng không sao kể xiết với các đêm màu hồng, nhất dạ đế vương... Và các tù nhân ngoài cái đói khát, bệnh tật, chết chóc lại rất thích nghe những chuyện nầy.   
Những tù nhân qua nhiều triều đại: có người đã thụ án đến ba mươi hai năm với nhiều bản án chồng chất từ chế độ nầy sang chế độ khác, phần lớn họ lập công trong tù bằng cách triệt hạ người khác để lấy điểm với kẻ đương quyền, nên lúc chế độ nầy sụp đổ những kẻ bị trấn áp ngày trước, nay lên cầm quyền và thế là họ bị kêu án tiếp... Con đường cũ cứ lập lại vì trên đất nước nầy các thế lực bao giờ cũng là các đối cực, nên kẻ lên ngựa người xuống xe là điều không tránh khỏi, nhất là đối với những kẻ gây hận thù mà vốn hận thù chỉ thêm thù hận. Tù nhân ba mươi hai năm nầy cướp ngân hàng từ năm mười tám tuổi, dưới thời Pháp thuộc, gây án mạng trong tù  bị kêu án tiếp, từng là trưởng ban trật tự khét tiếng ở nhà tù Côn đảo, đàn áp tàn nhẫn dã man với các tù nhân cộng sản, nên khi những người cộng sản chiến thắng, y nhận được một cái lệnh tập trung vô thời hạn và đã mười lăm năm trôi qua trong tù dưới chế độ cộng sản... y tâm sự: bây giờ thì tôi sợ rồi, ngày trước nhiều lắm chỉ đánh đá vài cái là xong, có khi đánh trúng chỗ huyệt chết ngay, chứ không có sự trả thù dai dẳng như bây giờ. Người tù xấu số nầy chỉ tay về phía Nhà đỏ, nơi những con người đang bị sấy khô trong các cái hộp và chết dần dần vì quá khát, quá đói cùng những cú đấm đá vô chừng vào mỗi chiều trong giờ điểm danh. Ông ta làm thợ hớt tóc trong trại giam, ánh mắt y luôn dáo dát, sợ hãi, đây cũng là nét chung của các tù nhân thuộc nhóm tù từ Côn Đảo được đưa về đây: làm gì cũng cảnh giác, luôn luôn sợ các bạn tù cũng như công an theo dõi.
Và một người đồng bọn, cũng tù Côn đảo, anh ta cao to lớn, do vậy các nhu cầu cơ thể có lẽ cũng nhiều, mỗi chiều sau giờ lao động tù nhân nầy đi đánh bắt thằn lằn về kho như cá cơm. Nhưng đó cũng lại là cái cớ để gặp gỡ với người nầy, người khác nhất là những người mới thăm gặp để vòi thức ăn, nếu ai không cho y sẽ gây gổ...Trong tù dạng xin ăn này không thiếu.  Y bị đi Nhà Đỏ nhiều lần nhưng vì tính chất hình sự nên sớm được thả ra, và rồi vẫn ngựa quen đường cũ. Trước con mắt hớt hãi của y như đi tìm mồi, ai thoáng thấy cũng ái ngại lo tránh xa. Thiện Nam nghĩ đến học thuyết ba thế giới của Mao Trạch Đông: hình ảnh các nước thứ ba đến một lúc nào đó vì không kiềm chế được nữa đối với các nước giàu.
Tuổi trung bình của nhóm nầy từ bốn mươi đến năm mươi, người nào cũng trông như khô đét lại, còn nếu trông như mập thì đó là bị sưng phù, mỗi khi đội hình của họ ra khỏi trại, công việc đầu tiên của mỗi người là nhắm vào những đám khoai mì, cho dù quản giáo, quản chế có la réo, họ cải thiện cho bằng được dù mỗi người chỉ cố vơ không hơn một nắm lá khoai mì để về làm dưa. Người nào may mắn lắm mỗi năm gia đình đến thăm một lần, nhưng hầu như rất ít, thời gian cách ly xã hội quá lâu khiến nhiều người không còn biết thân nhân mình bây giờ ở đâu. Và về mặt xã hội, sự gánh chịu lâu năm đối với người trong tù trở nên gánh nặng mà lâu dài các gia đình không thể chịu nổi, nhất là tù hình sự thường gia đình bỏ cuộc rất sớm.
Khi đội hình kia trở về trại giam, họ chạy khắp các phòng lục lạo trong các chỗ rác rưởi, thật đáng thương để tìm xem thức ăn có còn sót chút nào hay không, một số khác tìm cách phục vụ các tù nhân có thăm gặp hầu mong xin được một chút mắm muối gì còn sót lại... “Cuộc đời là một sự chuyển tiếp và suy tàn” như triết gia Nietzche đã nói, nhưng nếu sự chuyển tiếp đã là một sự suy tàn thì còn gì là phủ định của phủ định để gieo niềm tin nơi mai hậu. Các tù nhân thuộc nhóm nầy khi được hỏi về đức tin tôn giáo họ rất thờ ơ: có Chúa, có Phật cũng như không Phật - không Chúa. Nhưng họ không phải là kẻ vô thần. Người nào cũng trong mệt mỏi, những bước chân còn lại trên trần gian nầy dù có rán lê bước nhưng đã quá uể oải. Từ oải oải được nhắc đến nhiều bằng các từ chia cơm, chia nước, cải thiện... trong cuộc sống hằng ngày. Hầu hết họ bị sốt nhẹ vào buổi chiều và có khi sốt cao cả nguyên ngày, có một cái gì đó đang chờ đợi họ. Nó không to lớn lắm và họ cũng không cầu nguyện. Nó là dấu chấm hết. Có lúc Thiện Nam bị chuyển vào một phân trại xa tít, hẻo lánh sát chân núi, dù không ở chung cùng đội, song rất gần gũi với họ. Những con người nầy cũng tâm sự và tự hỏi không biết mình sinh ra để làm gì, để triệt hạ con người, để giết người, sinh mâu thuẩn hận thù, lúc nào cũng phải nói láo với vợ con, bạn hữu và cả chính mình vì chắc chắn không thể nói thật được, với họ thế gian nầy có cái nói thật sẽ chết ngay. Giờ đây trước giờ có thể lâm tử bất cứ lúc nào của mỗi người: cái thật hay không thật cũng chỉ là cái giới hạn, chết có dù cho là hết, nhưng trong họ, Thiện Nam thường tiếp xúc và hiểu được tâm trạng người nào cũng có nỗi băn khoăn: giá như ta đã làm gì mang lại một chút hữu ích cho đồng loại vẫn dễ nhắm mắt hơn lúc ra đi. Trong nhóm nầy có cả các tướng cướp khét tiếng ở miền Trung và miền Nam như họ Mã, họ Điền, họ Lâm... Họ lầm lì, lúc rảnh rỗi thì đi qua đi lại bên trong các hàng rào kẽm gai và như hầm hừ không nói năng gì cả, theo cuộc sống có lúc họ cũng chạy, nhưng phần lớn họ đều có đàn em và người phục vụ hay hoà đồng cùng chia cơm nước muối, lá khoai mì muối dưa với anh em khác. Người nào cũng chung thân hoặc tử hình được tha tội chết, và đố ai biết cọp khi thả về rừng.
     Những người yêu nước từ Mỹ trở về: rải rác quanh khắp trại giam đều có những nấm mồ chôn theo tập thể gọi là Thương Tín, đúng ra là những người trở lại quê hương trên con tàu mang tên Việt Nam Thương Tín. Họ là những người rời bỏ Việt Nam khi cộng sản nắm quyền, nhưng khi qua Mỹ với nhiều lý do ban đầu như nhớ vợ con, cha mẹ, môi trường vừa đang sống nay thoáng chốc đã mất... Trong cơn khủng hoảng và chao đảo: họ muốn trở về. Nước Mỹ vốn tôn trọng tự do và hơn ai hết các nhà lãnh đạo nước Mỹ hiểu rất rõ thế nào là chế độ mất tự do, nên đã tạo cho mỗi người một cơ hội cuối, theo lời kể của những người trở về, trước khi lên tàu họ bước xuống con đường hầm có hai ngõ rẽ để ở lại Hoa Kỳ hay lên thẳng con tàu Thương Tín trở lại Việt Nam. Người Mỹ muốn giữ danh dự cho những người muốn ở lại, vì trước đó những người nầy đã biểu tình đòi về nước rất hung hăng. Có người sớm nhận ra vấn đề và nhờ đường nhân đạo nầy được ở lại Hiệp Chủng Quốc và thoát chết. Song số phận của những con người trở về, khi con tàu vừa cập bến họ đều bị giam giữ ngay, trong tuần lễ đầu tiên đã có người tự tử, Thiện Nam lúc ra toà trở về bị kỷ luật và nằm sát bên căn phòng gọi là cacho có viên trung uý trở về oan ức quá mà tự tử này: tất cả đều bị kết tội gián điệp cho CIA. Nhiều người khác cũng tự tử khi chuyển đến các trại lao động khổ sai. Lúc đầu họ thường xuyên bị nhốt kín vì là gián điệp trở về Việt Nam để quấy phá, về sau số còn lại được ra ngoài lao động, nhưng lúc vào trại cũng bị khoanh vùng không cho liên hệ với ai. Các tù nhân chỉ được gặp họ một cách thoả mái trên hiện trường lao động, nơi thỉnh thoảng gần đó có nhiều anh em Việt Nam Thương Tín đã bỏ cuộc. Các tù nhân thường đắp mộ và rắc hoa cỏ dại lên mộ của họ. Mọi người cũng không rõ trên nghĩa trang chính thức của trại giam có bao nhiêu người Thương Tín trong số hàng hàng lớp lớp nằm xuống nơi đây, và riêng họ bị chôn phân tán khắp nơi. Những ai đến lao cải tại trại Xuân Phước, mệnh danh là Thung Lũng Tử Thần, thường không quên hỏi về những người tù đặc biệt nầy, rồi câu trả lời trở thành lời ghi nhớ mãi trong các tù nhân: Họ đã suy sụp tinh thần và chết dữ lắm.
Thiện Nam có gặp một người trở về trên chuyến tàu nầy tại Kinh đô cũ Sài Gòn, lúc còn ngoài xã hội không rõ lý do gì mà ông được thả sớm như thế, tuổi ngoài năm mươi, còn ai hỏi gì ông cũng chỉ nói: thoát chết, thoát chết. Và một bà cụ láng giềng với chàng có một người con cũng trở về trên chuyến tàu ấy, là sĩ quan cấp bậc Thiếu uý, theo bà chỉ vì nhớ cô vợ quá trẻ không đi được mà xin trở về. Bà diễn tả cuộc hành trình đi thăm người con, lúc đầu khi mới hay tin còn cố gắng mỗi năm hai lần, nhưng năm sau chỉ còn duy nhất là một. Nó không xa Sài Gòn lắm đối với một người tần tảo như bà, chưa tới năm trăm kí lô mét nhưng phải mất ba ngày mới đến nơi, nếu vào mùa mưa lũ phải mất đến cả chục ngày mới về lại đến nhà. Ấn tượng nhất là chiếc xuồng con đưa bà sang sông, có lúc như muốn chìm hẳn theo dòng nước cuốn... Những điều bà kể lại như linh ứng trước với chàng, nay Thiện Nam không may ở đây, mỗi chiều sau giờ cơm nước trước lúc điểm danh, chàng hay đi rà qua rà lại để có dịp tiếp xúc và may thay nếu người sĩ quan trẻ con bà cụ... Song vô vọng, họ vẫn bị rào kín thật chặt, một vài tù nhân có lúc tình cờ được trò chuyện, nhưng Thiện Nam cũng như phần lớn các bạn tù khác chỉ nghe kể lại: họ rất ân hận, sự lầm lỡ trong phút chốc bồng bột đầy cảm tính có liên can đến vấn đề chính trị đã đưa họ xuống tận đáy địa ngục. Địa ngục không phải ở kiếp sau mà nơi đây dưới lửa thiêu đốt của bàn tay con người mới đáng sợ và kinh hãi hơn những gì được phát họa về sự trừng phạt của Thượng Đế.
Tử vì đạo: đó là một Linh mục giữ bánh lễ và bị kỷ luật, bị đánh đến trào máu, chết vì tội truyền bá tôn giáo, trong tù mà còn giữ Mình Thánh Chúa... Các tù nhân tiếc thương đến viếng vị Linh mục khả kính nầy lần cuối cùng tại bệnh xá trại giam, người nằm trên chiếc giường gỗ để khám cho các bệnh nhân, mũi và miệng đầy máu do bị đánh đêm qua. Tên Người là Quang Minh, vụ Nhà thờ Vinh Sơn, thuộc miền Nam Việt Nam trước đây, xảy ra khi đất nước vừa mới thống nhất. Không ai biết rõ Người liên can đến chính trị ở mức độ nào vì con người là một hữu thể chính trị. Song Người sống hiền lành, giúp đỡ mọi người, những ai gần gũi Ngài đều rõ: không bao giờ Ngài đề cập đến chính trị, ngoài sống Phúc âm. Ngài chết đi, không ai biết có là Chân Phước hay không, nhưng chắc chắn Người đã chết vì Đức Tin .
Tử đạo vì nhân quyền: Cái chết của một Linh mục bất khuất, Người đấu tranh cho quyền của con người được sống tự do, bình đẳng, tự do tôn giáo, chống lại những bất công của chế độ mà xuyên suốt các trại giam ai cũng biết: Linh mục Nguyễn Luân, án chung thân, những chuỗi ngày tù của vị Linh mục trẻ nầy là kỷ luật và kiên giam. Người đã chết tại bệnh xá Thung Lũng Tử Thần vì một ung nhọt nhỏ sau lưng bị nhiễm trùng loét dần đến chết, tuổi ngoài bốn mươi. Những bài viết, những lời hô hào về nhân quyền của Người được truyền khắp trại giam, quen thuộc như những bài cầu kinh sáng tối. 

XXI
CƯỠI NGỰA XEM HOA 
 
Hội chứng đói thông tin: vào các ngày chủ nhật, mặc dù bị cấm đoán tụ họp, các tù nhân vẫn cố tìm mọi cách gặp gỡ để sưởi ấm cho nhau về tinh thần, như trao đổi thông tin, hoặc cho nhau chút quà từ gia đình... Các nhóm cũng hình thành từ đây, và một nơi qui tụ toàn những nhân vật nổi tiếng từ ngoài xã hội, nên rất dễ đi đến ngộ nhận có các âm mưu thành lập đảng phái bè nhóm, thậm chí còn bị chụp mũ là thành lập chính phủ trong tù, và bị kiên giam cho đến chết. Một Chủ tịch Mặt trận chống cộng, nhân ngày đầu xuân, nhiều người đến chúc tết, sau đó ông bị kết án ngầm đến chết vì theo những người cộng sản phải diệt tận gốc rễ. Cha Vàng - tên gọi thân mật của các tù nhân gọi Người, nhà thuyết giáo một thời đã đưa nhiều người Việt Nam chịu phép rửa sau những bài giảng. Bây giờ với bao ngày tháng bị kiên giam, Ngài chịu đựng được đến năm thứ ba, nhiều tù nhân chỉ vài tháng là đã chết, Cha chỉ còn bộ da bọc xương như một người Somalia sắp chết đói. Tấm thân ấy đang chờ một nguyên cớ để ngã xuống, và Người đã chết, khi khiêng ra khỏi phòng kiên giam để bỏ vào cổ quan các tù nhân chứng kiến máu chảy ra từ hai lỗ mũi của Ngài đã khô lại.
Thế nhưng con người luôn khao khát tìm kiếm thông tin, thỉnh thoảng có người tù tự giác nào chuyên nghề điện tử đi sửa chữa radio cho cơ quan hay cá nhân cán bộ nào đó trở về, thường lén lút mang theo một bản mạch nhỏ, nếu bắt gặp cũng không có gì nghi ngờ vì nó là một phần của cái máy phát thanh, thế là đêm hôm đó các tù nhân được nghe lén một cách hồi họp BBC, VOA thích chí.
Hầu hết các tù nhân lương tâm ở đây đều xem những thông tin của BBC như người bạn đường của họ, và cũng có lắm kẻ tạo ra vô số các thông tin giả để vòi vĩnh kiếm ăn trong tù. Tại các trại có sự liên hệ với dân chúng quanh vùng, tù tự giác còn mang cả radio vào trại, việc nầy nếu bị lộ sẽ vào nhà kỷ luật ngay, có khi còn bị truy tố ra toà về tội tuyên truyền xuyên tạc phao tin đồn nhảm... song nhờ vậy những thông tin về thế giới luôn được cập nhật và tất nhiên không ngoài các hãng thông tấn như Reuters, AFP...
Biết được thông tin để sống trong chờ đợi, hy vọng, và có khi biết để rồi đưa đến cái chết trong thất vọng, qua các hãng thông tấn sẽ có Cao ủy Nhân quyền LHQ đến thăm nhiều trại giam, và thế là các tù nhân xôn xao không biết giờ G là giờ nào cho đến khi họ bị phân tán và mang đi giấu khắp nơi... Có một lần và có lẽ chỉ một lần, Cao uỷ Nhân quyền đã đến trại Thung Lũng Tử Thần, và sau đó các tù nhân lương tâm bị đày ải đến tận những miền núi non hiểm trở ở miền Bắc Việt Nam, nguyên do cổng vào trại giam rẽ làm hai lối, càc tù hình sự và chính trị được xem là ôn hoà thì giam bên nầy, có ánh đèn thật sáng và phái đoàn Cao uỷ đến thăm trại vào chiều tối, Quý Ngài trong phái đoàn đã đi về phía ánh sáng họ đã không nhìn thấy phía dãy nhà tối tăm kia, các tù nhân đang bị giấu kín và bị canh phòng rất nghiêm ngặt, chính các tù nhân nầy mới đang cần gặp Cao uỷ, họ những con người sẵn sàng dám phơi bày sự thật. Vì sự canh phòng quá kỹ nên sau khi phái đoàn ra khỏi cổng trại họ mới nhận biết, dù vậy các tù nhân vẫn lấy nồi chảo làm trống khua vang để may ra Quý Ngài trong Cao uỷ có quay trở lại, nhưng tất cả chỉ là sự trả lời của chữ Không Không, các tù nhân phải trả giá cho sự phản kháng kêu gọi của mình. Còn viên trưởng trại thì xuất hiện giữa khuya, y cho bật đèn sáng lên khắp cả trong sảng khoái: các anh hãy yên tâm cải tạo, chớ có tin, bọn tư sản thì chỉ có thế, chúng chỉ cưỡi ngựa xem hoa mà thôi.
Lãnh tụ không cần lãnh hội: các Mặt trận, các Phong trào, nay vào tù qua sự tự nhân danh để tạo chính danh về phía mình, từ đó mới thể hiện rõ phần lớn đều dựa vào các tu sĩ mà hình thành, ngoài ra việc thành lập chính phủ trong tù bị phóng đại do các nhóm muốn triệt hạ nhau, dẫn đến những cái chết bi thảm, đó là các lãnh tụ nầy hầu hết đều bị cùm đến chết. Thế giới hình thành thế giới và các nhóm khác lại nổi lên, những kẻ tham vọng lại càng tìm dựa vào một tôn giáo khác, hoặc tạo ra một giáo phái nào đó để nhân danh. Quần chúng giống như những con thiêu thân luôn chạy đến ánh đèn loé sáng nhất, hoặc với những lời lẽ quá khích của kẻ bạo động hùng biện, hay những người chủ trương hoà bình nhưng ngôn từ kích động hùng hồn. Quả thật thợ gặt đầy đồng, nhưng đồng vẫn trống như trong điều kiện thiếu thông tin, các lãnh tụ không hội đủ tri thức đích thực, nên ai cũng dự phóng biến đổi thế giới qua những toà lâu đài tưởng tượng thiếu thực tế của mình. Khi một nền nông nghiệp không còn đất đai, họ vẫn nghĩ trên việc cày cấy truyền thống. Khi hợp chất của nước trong điều kiện vi dẫn lực khác nhau, nhưng họ vẫn chưa hiểu rõ tại sao nước lại là H2O, họ có ý niệm dễ dàng hơn về nước dơ nước sạch, nước trong nước đục, nước lũ nước lụt, và cả từ vận nước cùng cách chèo chống, lèo lách con thuyền trên mặt nước thì dường như rất sành sỏi... còn căn để của vấn đề như xây dựng, hiểu biết các định luật về sức đẩy của nước thì họ thật sự không mấy quan tâm, ngay cả các biến đổi về sinh học và vật lý mà từ đó hầu xây dựng một nền tảng đạo đức cho xã hội khi đã vượt qua ghềnh thác thì hầu như trống rỗng, nếu có chỉ là sự nhai lại của những con vẹt nhập khẩu từ bên ngoài. Họ lèo lái con thuyền rất giỏi, nếu không muốn nói là rất thông minh trong việc lạng lách con thuyền vượt qua sóng gió, nhưng sau mỗi lần thoát qua ghềnh thác thì con thuyền ấy lại là con thuyền sắp chết đuối trong sự phát triển chung của đồng loại cả về đạo đức cũng như kinh tế. Và lãnh đạo nhân dân trên căn để thiếu nền tảng khoa học để xây dựng cho nền tảng đạo đức của cây gậy dẫn đường, nên điểm đặc biệt mà Thiện Nam nhận ra khi sống chung với tù chính trị: đó là người nào cũng muốn trở thành lãnh tụ vì làm lãnh tụ ở Việt Nam chỉ cần các Cha, các Sư ủng hộ... và bây giờ là một thứ tôn giáo khác: đó là Đảng bảo kê.
Bàn tay lãnh tụ nào cũng đẹp: nghề bói toán trong tù rất được ưa chuộng, trong chốn tối tăm mịt mù ai cũng muốn biết về tương lai... Nhân ngày đầu xuân, một tù nhân nổi tiếng là có tài xem chỉ tay đã làm điều bất ngờ: lão quì sạp xuống mừng thọ một lãnh tụ miền Nam trước đây, được mệnh danh là “Vua dầu lửa”: Con xin phép được chiêm ngưỡng bàn tay của Ngài, và sau đó là một bài tiên tri đã được soạn sẵn... bàn tay nầy không thể là bàn tay của kẻ bình thường, Ngài có đường may mắn thật tụyêt vời, trong cảnh khổ nhưng luôn hồng đào, đây quả là bàn tay của các yếu nhân, đây chẳng qua chỉ là sự thử thách đối với bậc Quân tử trước khi Trời trao cho việc lớn, Đại nhân yên tâm, năm nay Ngài bình yên, sức khoẻ tốt, gia đình lên thăm nuôi thường xuyên... Thế là trước khi chào từ biệt, nhà tiên tri được lãnh tụ tặng cho một giỏ quà mọn gồm lạp xưởng, bánh chưng cùng các loại kẹo mức về phòng ăn tết.
Mỗi độ xuân sang, trong tù luôn có sự thay đổi, vì nhiều lý do an ninh khác nhau, trong sự sắp xếp lại trật tự mới nầy, có người vào kiên giam, hoặc chuyển đội, chuyển trại, riêng Đại nhân vốn có lòng hào hiệp và hay thích tâng bốc, ông được thăm nuôi nhiều thật như lời tiên tri, trên đường từ nhà thăm gặp vào trại, ông đã cất giấu tiền mặt và làm rơi vãi dọc đường, khiến ông bị kỷ luật nghiệt ngã. Ông đã chết sau đó không lâu vì tuổi cao khi phải chịu đựng thời tiết khắc nghiệt của miền rừng núi từ tiết đại hàn sang lập xuân nơi phòng tối. 
Hội chứng chờ chết: bệnh xá trại giam, đây là nơi chờ chết đúng hơn là để được chữa trị. Các bệnh nhân tù nằm thành dãy dài đến chỗ gần nhà xác dành cho kẻ hấp hối. Mỗi ngày luôn có vài người chết, phần lớn là tù hình sự tập trung, không có gia đình thăm viếng, rất nhiều trường hợp đã khiêng ra nhà xác, rồi mang vào trở lại, vì trước lúc quấn chiếu đi chôn còn hơi thở thoi thóp.
Trạm y tế của trại giam “Thung Lũng Tử Thần” được giao cho một viên Đại tá, nguyên Phó Cục trưởng cục quân y thuộc chế độ miền Nam trước đây, cùng nhiều Bác sỹ quân y trợ tá. Nhưng tất cả các thầy thuốc nầy đảm trách công việc an ninh hơn là chức năng chuyên môn của mình. Họ canh chừng các bệnh nhân bị nghi là vờ bệnh để trốn trại, phát hiện ra các tù nhân giả bệnh để tránh lao động, như thế sẽ lập được thành tích nhiều hơn là cứu chữa cho một tù nhân nào đó thoát chết, vì cụ thể như: có tù nhân đã cứu được nhiều người thoát chết trong cơn lũ, kể cả cán bộ quản lý trại giam, nhưng đến lúc trốn trại vẫn bị tử hình.
Về sau viên Đại tá Bác sỹ nầy được phóng thích, bệnh xá được giao cho một anh chăn bò, y không có trình độ nhưng được sự tin tưởng của giám thị qua lời giới thiệu của Đại tá. Ông đã huấn luyện cho y, và kẻ hậu duệ nầy thường chích thẳng vào tim của các tù nhân hấp hối với lời giải thích là người nào trước lúc chết cũng bị nghẹt van tim, và ai cũng muốn sống dù chỉ là sự giựt mình trước cái chết. Họ đã chích vào con người mà họ biết chắc là sẽ chết như chích vào phổi bò. 
Tiếng kêu vào những giây phút cuối cùng: các tù nhân trước khi chết thường rên la thảm thiết, có lẽ viên Đại tá phụ trách Tổng nha cải huấn, trùm cai tù trong số các trùm cai tù thuộc chế độ miền Nam trước đây là gào thét lớn nhất. Cả trại giam như nghe tiếng than khóc của ông vào buổi chiều trước lúc lâm tử: “Chúng giết tôi, chúng giết tôi”.  
Sự thân mật gắn bó và tình người nhất có lẽ là lúc các tù nhân nằm chờ chết, họ đã kể cho nhau về những gì mà cuộc sống bình thường dường như không thể nào được nói đến: về gia đình, về bí mật quốc gia và cả về chính họ. Ông Trùm kể về những cây “kiếm thần” tiền trảm hậu tấu dưới triều đại của ông, và ông cười cả miền Nam và miền Bắc các cận thần đều được ban phát loại kiếm nầy. Niềm mong ước thật sự của ông là một gia đình hạnh phúc. Ông trùm đã không có được điều đó, dù ông là người từng đầy quyền lực. Con nuôi của vị Tổng Thống đương thời. Ông không nhớ rõ các con của mình. Theo lời ông kể: -Có đến mười một người đàn bà chính thức có con với mình, nhưng họ không phải là vợ... ngoài ra là vô số. Những người nữ ấy, họ vì chồng, con đang bị giam giữ mà đành hiến thân xác để ông ký giấy tha cho họ. Khi ông Trùm bị mù, các Bác sỹ bảo ông giả vờ, khi lỗ tai không còn nghe rõ do tuổi cao, họ bảo ông đóng kịch. Ông chết vào một buổi chiều, nhiều người nghe rõ tiếng kêu la thảm thiết của một người trong ám ảnh bị bức tử. 
Ao cá tử thần: trại giam nào cũng có nhiều ao cá bao quanh, do các tù nhân đào, thậm chí nó được đặt theo tên của các lãnh tụ vĩ đại, nó mang lại giá trị kinh tế như nuôi cá, nhất là về an ninh quốc phòng. Đó là thứ rào cản các tù nhân trốn trại, và có một hồ cá bên bệnh xá trại giam, nơi đó các hộ lý thường đưa các bệnh nhân cao tuổi đến làm vệ sinh. Vào mùa đông, thời tiết rét lạnh, các cụ bị đẩy xuống ao nước giá buốt, người nào hai tay cũng nắm chặt lại như gồng mình, da tái đến tím lại, cơ thân run lập cập, thật thảm hại. Cái chết thật sự đến gần hơn, nhưng đây lại là ân huệ trong nhà tù: đi tắm là một ân huệ.
Công án về bóng ma: Các tù nhân vừa chết đêm qua, được quấn lại trong các chiếc chiếu, và mỗi cổ quan như thế được lãnh tiêu chuẩn ba cục cơm vét cùng mấy que nhan. Những chiếc xe kéo lần lượt đưa họ ra khỏi trại giam trong giờ hành chánh vì lúc đó mọi tù nhân đều ra đồng... các đám ma sẽ ít gây ảnh hưởng tâm lý sợ hãi đến các tù nhân còn sống. 
Và câu chuyện được truyền lại một cách bi hài về ba vét cơm ấy với bốn người khiêng cùng là kẻ đào huyệt: khi đến nơi các cục cơm ấy đã biến mất lúc nào không hay, vì ba mà chia cho bốn, nên lần đi chôn cất nào cũng có cãi vã suýt đánh nhau đến chết. Mọi sự diễn ra như thế, sống chết, đói khát, tham vọng và quyền lực, ánh sáng và tối tăm, hy vọng và thất vọng.
Thanh trừng nghiệt ngã: sự thanh trừng giữa các nhóm với nhau cũng thật nghiệt ngã, các tù nhân chống đối lại chế độ hiện hành tự cho mình là thành phần yêu nước chính hiệu, phân biệt với các thuyền nhân và các sĩ quan tập trung thuộc tầng lớp khác - một quá khứ lịch sử còn tồn tại, và tù hình sự nữa... Các vụ đàn áp lẫn nhau giữa các nhóm để được gọi là yêu nước chính thống xảy ra liên tục, nhất là khi điều kiện giam giữ có phần thông thoáng xảy ra ở các trại phía Nam như được ra ngoài rộng rãi hơn của tù tự giác, lúc trở về trại thường bị trấn áp bằng bạo lực với đủ mọi lý do: nào quan hệ với phụ nữ, mua bán đổi chác, những việc làm gọi là làm mất phẩm cách tù chính trị... các cai tù hay ví von khi những con nhím sống gần nhau thì các sợi lông của chúng lại chích lẫn nhau. Họ thường khi bỏ ngỏ: hãy để chúng tự mâu thuẩn và giết nhau. Nhưng tất cả đều đã quên dân tộc nầy có một nền tảng triết lý sống ăn sâu vào gốc rễ mỗi con người, người Mỹ có muốn cũng không có liền ngay và cả Âu châu cũng thế: Triết lý Phật Giáo.
Cách chia để trị “đoàn kết bạn hữu lại và chia rẽ kẻ thù ra” vẫn là qui luật cố hữu của kẻ cầm quyền, thỉnh thoảng bộ phận an ninh lại kêu một vài người nào đó làm việc và đồng thời trong ngày hôm ấy lại có anh em tù nhân bị đi cùm, thế là họ đã tạo ra sự nghi kỵ giữa các tù nhân với nhau, song tất cả dường như đã được sắp đặt, bọn cai tù luôn có mạng lưới riêng được bố ráp khắp các phòng của trại giam. Họ luôn tạo mâu thuẩn và những ai rơi vào tầm nhìn của an ninh, thường là các nhân vật có ảnh hưởng trong tù, nếu không có sự kiên định từ bên trong của cá nhân cũng như các bạn hữu chung quanh sẽ khiến ai đó có cảm giác bị tách ra khỏi sự sưởi ấm chung của đàn cừu. 
Nhưng chính các yếu tố bên trong mới là điều quan trọng, các nhóm luôn tranh giành ảnh hưởng với kỳ vọng họ sẽ là những người tiên phong lãnh đạo đất nước sau khi chế độ toàn trị sụp đổ. Có nhóm lấy tên là Con Trời, nhưng nhóm khác lại xưng danh Siêu Thiên Tử, nhóm nầy xưng là Duy Dân, và nhóm kia gọi là Nhân Bản, rồi lại Nhân Bản Tiến Bộ... Nó không thiếu một từ nào vốn đã có từ thời Platon đến Aristote về chính trị, tự do, dân chủ. Nhưng có lẽ nơi thâm sâu của những người tù lương tâm chân chính, vấn đề không phải là tranh giành quyền lực, điều nầy không phải vì họ quá lý tưởng, Thiện Nam rất gần gũi họ, vấn đề là làm giảm nỗi đau và mang lại môt chút hy vọng nào đó cho đồng loại, chứ không vì sự tồn tại của tôi mà tôi có quyền nhân danh tất cả để đạp đổ người khác. 
 

XXII
NHÀ ĐỎ
 
Nhà đỏ: có Thánh lễ cầu an tha tội, xá tội vong nhân, nhưng nơi đây chỉ có sự ghép tội và dẫn đến cái chết: con người bị buộc tội từ trong tư tưởng, chứ không hà tất phải có bằng chứng đầy đủ mới buộc tội. Lễ ghép tội: thường bắt đầu bằng nghi thức tù nhân bị cột chéo tay ngược về phía sau thân cây khá lớn trong tư thế đứng. Các cơ của vòng ngực cùng xương sườn bị kéo ngược giãn ra khi chiếc còng số tám buộc chặt hai cổ tay tréo nhau gộp lại, tất nhiên phải có sự phụ trợ của tù tự giác, mới khiến hai cổ tay khít lại với nhau, theo nhiều người, có vài ký giả từng qua lễ ghép tội cùng kể lại: nước mắt nước mũi tù nhân nào cũng tràn ra dẫy dụa. Màn đầu kết thúc, cho dù có tội hay không có tội, đối với bất cứ ai cũng phải trải qua trước khi bước vào Nhà đỏ .
Ngoài ra, theo lời các tù nhân xây cất Nhà đỏ truyền lại, họ được lệnh đổ muối thật nhiều dưới nền, nên về khuya cái lạnh giữa rừng khiến Nhà đỏ trở nên rất lạnh và khi thời tiết oi bức cũng trở nên rất nóng như thiêu đốt. Đặc biệt ở đây, đó là giờ tử thần - lúc mặt trời sắp lặn dần, rồi khuất núi, cũng là lúc chuẩn bị điểm danh. Khi có tiếng gọi từ ngoài cửa đầy sự ngang ngược hỗn láo, tất cả dù già trẻ lớn bé đều là thằng, tên nầy, tên nọ... là ngụy, phản quốc.v.v. rồi có tiếng đáp lại đầy sợ hãi từ bên trong, giây phút nầy là khoảnh khắc hồi họp nhất trong ngày, các tù nhân có thể bị lôi ra và bị đánh đập tàn nhẫn về đủ mọi lý do để con người phải đến cái chết.
Đêm càng về khuya, sương muối đổ vào phòng giam qua các cửa thông gió, khiến quần áo người tù bị cùm bên trong cũng ướt sũng, chỉ có thể ngồi khum người và áo phải kéo lên khỏi đầu để làm mùng tránh muỗi, chúng bay thành đàn vo ve như bầy ong giữa rừng. Việc tắm giặt hầu như không có ở thế giới nầy, nơi cửa ngõ của sự chết. 
“Hãy cút... Hãy cút...Hãy dẹp ngay chế độ cộng sản lỗi thời...” Khi viên giám thị trưởng cùng đoàn tùy tùng đi xem xét các phòng giam, thường thì ai cũng phải đứng nghiêm chào nhưng có một tù nhân đã nhảy ra trước mặt họ và la lớn: -Hãy cút về Bắc, hãy cút về Bắc, dẹp bỏ ngay chế độ cộng sản. Minh Triết lập lại nhiều lần. Hôm ấy lại vào ngày nghỉ, nên cả trại giam gần như hỗn loạn lên vì sự kiện có một không hai nầy. Tất nhiên ngay sau đó anh đã bị dẫn độ đến Nhà Đỏ, mỗi trại giam đều có Nhà Đỏ trong cách thế hành hạ con người như thế đó, vây quanh anh là đoàn cán bộ thật hùng hỗ cùng đám tự giác ăn theo để lập công, chúng vật anh xuống để trói lại và đánh đập, nhưng Minh Triết rất bình tĩnh tiếp tục hô vang những câu đòi hỏi nhân quyền. Hằng ngày cuộc sống của anh rất hiền, ít nói, thích giúp đỡ người cùng khổ khi có thăm nuôi.
Con người ấy đã điên: nguyên là một đoàn viên thanh niên cộng sản, phản đối thật mạnh mẽ về những sai trái của chế độ, anh bị kiên giam lâu dài, nên hậu quả nhiều lúc hoảng loạn vừa đi cầu và ăn luôn, hoặc bôi đầy người... chạy khắp trại giam không tấm áo che thân. Trong cơn hoảng loạn như thế, anh càng bị đánh đập nặng thêm, bị lôi đi khắp toàn trại đến điểm cuối cùng là trở lại nhà kiên giam. Miệng luôn lảm nhảm, mỗi khi phát âm lớn lên đó là những lời than oán chế độ, khi thì thầm không ai nghe rõ gì cả. Khuôn mặt của thanh niên đoàn viên nầy xương xương vì có lẽ sự thiếu thốn đã kéo dài không chỉ vài ngày mà nhiều năm, con mắt sáng mở to như dí vào mỗi ai đã từng gặp anh những khát vọng chưa thực hiện được... Cộng sản thì gian manh, bá đạo... còn Mỹ thì thả bom trên đầu đồng bào ta hàng loạt... ai gian ác hơn... ai văn minh hơn... Cộng sản thì dùng giáo mác đâm thẳng vào người khác, còn nếu có súng, xe tăng là của Nga, Tàu mà hết thảy nạn nhân là người Việt, máu phun tung toé, còn người Mỹ chỉ để lại những hố bom to tướng, họ từ xa bắn hoặc ném xuống và không còn dấu tích gì ngoài vũng nước sâu xanh còn lại...
Một người tù mang án chung thân khác, sinh viên, một con người luôn đấu tranh không mệt mỏi trong tù về dân sinh, dân quyền, anh trở nên bất bình thường từ từ rồi điên loạn, tất nhiên sinh viên trẻ nầy đã bị đánh rất nhiều: anh đã nhảy xuống giếng tự tử, may mắn được cứu sống, đã đập đầu vào tường, treo cổ... lần cuối cùng khi được chuyển vào đội hậu cần làm nhà bếp, anh đã nhảy vào chảo nước đang sôi và ra đi vĩnh viễn. Anh đã để lại lá thư tuyệt mạng với những đòi hỏi về dân sinh, dân quyền.
Có một Linh mục Dòng Đồng Công rất hiền từ, khiêm tốn, chưa ngoài năm mươi, cũng điên từ từ và điên thật. Ai cũng thương mến người về lòng bác ái đã thể hiện khi còn tỉnh táo -  Linh mục Liên.
Sau một thời gian ngắn ở tại Nhà đỏ, khuôn mặt người nào cũng sưng phù lên và cả bàn chân cũng vậy, họ trầm mặc, ít nói và sau đó là việc chuyển đến bệnh xá để gần nhà xác hơn. Nhưng “vật cùng tất biến”, có những người bị kiên giam nhiều lần song vẫn không chết - Các đạo sĩ, họ biết rõ không tránh khỏi kiên giam, nên xem các phòng giam nhỏ nơi đây như là nơi tịnh cốc, nhập thất và tu luyện. Các tù nhân này lúc ra ngoài ngồi đâu họ cũng trong tư thế toạ thiền, và một số người lúc nào cái đầu cũng gật gật. Họ ăn chay và làm điều thiện, cũng có kẻ nói tiên tri bói toán. 
Người ta cũng chứng kiến: khi nào có bán thịt cá là có một Nhà sư áo nâu chạy đứng hàng đầu nhanh hơn ai hết, ông tự giới thiệu là người từng có chức sắc, nên nay trong tù phải làm như thế để đánh lạc hướng đối phương, ông cũng làm những điều mà chúng ta chỉ biết niệm: thường xuyên đi phép về gia đình ở miền Trung Việt Nam, với mỗi lần như thế phải cống hiến cho trại giam và riêng các giám thị về vật chất nghe từ miệng ông là rất nhiều, nó vô thường. Về sau các tù nhân quen mắt dần rồi không còn bàn tán gì nhiều nữa vì con người là thế ấy: một nhà tu bấn loạn, ham sống và sợ hãi. Thiện Nam có giao tiếp với Nhà sư vì tính tình ông cũng hoà nhã, trong sự thân mật chàng hay đùa Ngài nên đổi tên thành Thích Vô Thần, ông chỉ cười, và những ai từng qua trại Thung lũng tử thần mỗi khi chộ thấy cảnh mua bán thịt cá của thời bao cấp ngay cả trong trại giam... sẽ không bao giờ quên hình ảnh của Nhà sư nầy.  
Khi con người quay lưng, một sĩ quan trẻ rất hăng say trong cuộc đấu tranh chống bất công trong tù, thuộc nhóm trẻ bất khuất ở trại giam, về sau thất vọng trước những lời hứa suông của các lãnh tụ trong tù, nhất là về nhân cách chính trị của các vị nầy. Tù nhân “một trăm tám mươi độ” đã khai báo hết tất cả các hoạt động bí mật trong tù, khiến không biết bao nhiêu người đã phải vào kiên giam. Hậu quả đã diễn ra phiên toà lưu động để xét xử các âm mưu trong tù như làm thơ, ngâm nga chống chế độ, kể cả các phát biểu được ghi nhận chống phá cách mạng đều bị kiên giam. 
Khi chính khách không còn nhận ra chính mình: chính khách thời hay tuyên bố, và đây là lời tuyên bố của một Luật sư trong tù: -Ở nhà có cha mẹ, ở đây có cán bộ; rồi lúc nằm kiên giam gặp lại một quản giáo cũ, ông đã thốt lên: - Hay quá gặp lại thầy cũ.
Sự sợ hãi quá mức ở kiên giam Nhà Đỏ, khiến nhiều trí thức như ông không còn biết mình là ai nữa, nỗi ám ảnh về cái chết, những lo toan sẽ mất mọi thứ dù đã bị mất mát rất nhiều rồi, và trong tù những món hời nhưng thật quí: nào cái lon gô để nấu nướng, ít cá khô, lương khô... cái bình đựng nước cùng vài bộ quần áo tù... bên cạnh các tham vọng ẩn kín về quyền lực của con người. Ông cũng bị tên tù “một trăm tám mươi độ” tố cáo, bị kiên giam đến gần chết mới được thả ra, đó là luật sư họ Nguyễn.
Xác ở đây nhưng hồn ở miền cực lạc: nhóm tù nhân thuộc loại nầy không ít, họ co rút người trong cô độc, miệng luôn lẩm nhẩm, ngồi kiểu thiền và luôn nói chuyện với “thần thánh”, các tù nhân gọi họ là những người ở cõi trên. Họ lý giải: xác ở đây nhưng hồn ở miền cực lạc, cuộc sống hằng ngày của chúng ta ở đây chỉ là hình ảnh của cuộc sống thực ở nơi hư vô nào đó mà thôi. Các tù nhân dạng nầy thường đã bị đánh đập rất nhiều trong lúc chấp cung. Họ chống lại việc làm điều ác, nhưng không tin có định luật nhân quả. 
Người ta cũng chứng kiến: những con người vì tha nhân mà có những hành động khác thường như họ sẵn sàng tạo ra các nguyên cớ để được vào nhà kỷ luật hầu mang thuốc chữa bệnh cho anh em bị kiên giam lâu ngày, như giả đánh nhau ngay giữa sân trại giam, tất nhiên trước mắt giám thị phải đưa cả hai vào nhà kỷ luật rồi sẽ phân xử sau, lợi dụng sự sơ hở trong khoảnh khắc nầy, các tù nhân đã dấu thuốc men trong người khi vào đến được nhà kỷ luật là trao ngay... Các hình thức khác như hái dừa trộm, ăn cắp hoa màu... thường phải qua thủ tục lập biên bản, nên có hơi chậm khi anh em đang cần cấp cứu cấp thời. Họ là những người luôn tổ chức cho các tù nhân khác nâng cao trình độ, việc học trong tù là điều lén lút, song hầu như ai cũng muốn học, nhất là ngoại ngữ nếu bị cấm ngặt quá thời học toán, vì sự phát hiện có bằng chứng dù là một chữ tiếng Anh, Pháp, Đức trong túi cũng sẽ bị kỷ luật ít ra bảy ngày. Họ là những người thuộc nhóm trẻ đấu tranh đòi quyền sống và được đối xử cho ra con người. Những việc làm của họ thường trong âm thầm và bí mật nhưng nó là sợi dây liên kết về tinh thần trong trại giam, nó là dấu chỉ của niềm tin và hy vọng vì nơi tận cùng của thế giới nầy: con người vẫn còn lòng trắc ẩn, biết yêu thương đồng loại và sẵn sàng hy sinh chính mạng sống của mình. Những anh em rất trẻ nầy, không người nào không mang các dấu ấn đầy thương tích cả về thân xác và tinh thần. Theo thời gian không biết bây giờ các bạn ở đâu, song những ai đã từng qua trại Thung lũng tử thần, bị kiên giam, kỷ luật và được nâng cao trình độ chắc không bao giờ quên vì sự quý chuộng công lý và dấn thân của họ. Thiện Nam luôn có mặt bên Họ.
Và, các vị chân tu khả kính: mà mỗi khi nhắc đến hoặc ai gặp cũng muốn cuối đầu tôn vinh, bước chân Họ như có một khoảng không cách mặt đất: Hòa Thượng Huyền Quang, Quảng Độ, Đức Nhuận... Quý Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Đức Cha Nguyễn Văn Hoa khả kính... nơi Họ có một cái gì là linh hồn của dân tộc nầy và hơn hết với tấm lòng bác ái, yêu người: Cha Nguyễn Công Đoan, Linh mục Giuse Trần văn Nguyện. Cha Bề trên Dòng Tên thì hầu như giúp đỡ gần hết những người khó nghèo mà Người gặp, còn Cha Nguyện mỗi khi thăm nuôi, lúc mang vào là chia hết ngay cho anh em nghèo khổ không có gia đình đến thăm viếng, rồi sau đó ăn bánh xe lịch sử, tức bánh bột khoai mì đen. Ngày ra khỏi trại, Người đi chân không, đôi dép được gửi lại cho ai đó bớt khổ, nơi trại Thung Lũng Tử Thần chân của phần lớn các tù nhân đều bị nứt nẻ vì mỗi khi ra khỏi trại bắt buột phải đi chân không, dù là lên rừng đốn củi hay khai hoang. Nhưng với Cha Bề trên Dòng Tên rất nhiều người không hài lòng với cách thế mà Người chọn trong tù: Người làm tổ trưởng đến đội trưởng rồi các chức vụ cao hơn... trong tù dù là Bề trên của một Dòng vốn có truyền thống chống vô thần, song trong nhà vô thần Người có thể đi bất cứ nơi nào Ngài muốn kể cả đi phép về nhà, tất nhiên là phải có xin phép cán bộ cộng sản. Hình ảnh của Cha Bề trên làm mọi người liên tưởng đến Giáo hội Công giáo Việt Nam mà vốn các Bề trên Dòng Tên bao giờ cũng là cố vấn cho các Giám mục: Tất cả là thế thôi. Các tù nhân đã làm thơ hay những câu vè và đặt trên chỗ đầu nằm hoặc nhét dưới gối Linh mục Bề trên: cái mà Người cho và cho chúng tôi thật nhiều là những gì vì địa vị bắt buộc Ngài phải làm như thế, còn sự xả thân đến hiến mạng sống mình thời không thể có: Ta phải sống, Giáo hội đang cần Ta, Ta còn Giáo hội mới tồn tại...Và đúng là Máu của các Thánh Tử đạo Việt Nam đã không bao giờ đủ để nuôi một cơ thân mà các vị lãnh đạo tinh thần luôn đi tìm quyền lực. Yếu tính của vấn đề là từ một nền triết lý động –cái động không phải vì các quyền cơ bản của con người mà vì tôi phải có quyền lực cho dù phải thoả hiệp. 
 
XXIII
NHỮNG DÒNG SÔNG 
BAO QUANH CÁC TRẠI GIAM VẪN CHẢY
  
Tất cả đều chảy và lưu chảy.
Trên các chiếc cầu nối giữa trại giam và thế giới bên ngoài, chúng được tháo dỡ và ráp lại trước sau mỗi mùa nước lũ, chiếc cầu như mang theo dấu ấn của bao điều bất thường về những đổi thay nơi đây.
Thiện Nam đã trải qua gần hai mươi năm với các cơn lũ mà hậu quả đến chết người. Nó do con người tạo nên hơn là do thiên nhiên, các trại giam thường tọa lạc bên dưới thung lũng và chung quanh bị xây kín bằng các bức tường thành. Vào mùa mưa, cổng trại giam trở thành cái phễu cho dòng nước tuôn đổ vào trong một hồ chứa, các tù nhân vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng sống: với khoảnh khắc cả trại giam chìm trong biển nước. Và như trại Thung Lũng Tử Thần, có năm bị vỡ đập . Nó được xây kế bên trại giam để chứa nước, công trình hoàn thành trên sự cạn kiệt về sức lực của tù nhân như mỗi chiều trên đường về trại, dù bị đói lã và kiệt sức nhưng các tù nhân phải mang kèm theo một tảng đá cho đến chân cầu thì vứt xuống xây đập.
Năm ấy đập bị vỡ, các giám thị trại giam thường trình độ rất thấp, nhưng duy ý chí hay đề ra những kế hoạch rất lớn, họ đã đứng ra chỉ huy xây đập và lực bất tòng tâm, các nhà “lãnh đạo” nầy đã không tính được sức mạnh của nước từ thượng nguồn đổ ập xuống như thác sau nhiều ngày mưa dầm liên tục... Các tù nhân nằm kiên giam đang bị cùm chân đã cố nhớm chân lên, cho đến khi có các tù nhân vốn nghề thợ lặn chuyên nghiệp vào giải cứu. Trong khi đó, từ các phòng giam chung, các nóc nhà đã được tháo bung để chuẩn bị thoát hiểm vì các mái trần đều có cấu trúc rất kiên cố. Các bức tường thành cao vút bên trong trại phân cách giữa các dãy nhà giam với nhau bắt đầu sụp đổ tạo nên sự chuyển động lớn, rồi con nước bị giật mạnh khiến các bức tường liên tiếp ngã xuống, kế đến là các toà nhà của trại giam cũng chuyển động như thế, cho đến khi bức tường ở cuối trại giam là nơi nước lũ dồn dập đổ về: có tiếng nổ thật dữ dội từ bức tường thành cuối cùng nầy... Một biển nước giựt hẳn xuống nhanh chóng, con nước chảy thoát ngay ra đồng ruộng.
Bên ngoài trại giam nước có dâng lên trên các cánh đồng nhưng không cao lắm, dòng sông có chảy gấp hơn, nhưng chỉ là lẽ biến thường giữa các mùa. Sau khi nước rút hẳn chỉ còn lại bùn non, viên giám thị trưởng xuất hiện giữa trại giam và la lớn: -Ta là kẻ cứu người, ta đã cứu các anh, ta đã cho cán bộ đập tường cho nước thoát, ta đã cứu các anh... Đảng đã cứu các anh! 
Tất cả đều trở về từ cõi chết sau cơn lũ mà có lẽ vụ vỡ đập ở Thung Lũng Tử Thần đã gây nhiều ấn tượng nhất trong tâm lý thần kinh của các tù nhân sống sót. 
Đảng đã cứu các anh và,
dưới chân dung các lãnh tụ vĩ đại
 
Các tù nhân sau một thời gian dài trong các trại lao cải, các công dân bị hại cũng như kẻ thống trị thường mắc các chứng nầy:
Loạn cảm giác bản thể là những cảm giác đa dạng hết sức khó chịu như nóng ran trong người, cấu xé trong ruột, điện giật trong óc... Các cảm giác nầy khu trú không rõ ràng trong các cơ quan nội tạng. Một tù nhân án phạt 20 năm, bị giam giữ lâu dài trong phòng tối tại nhà kỷ luật, mắt gần mù, tê liệt hai chân, lúc nào anh ta cũng than như có điện giựt trong óc, hoặc có gì cấu xé trong ruột. Tù nhân nầy cho biết đã từng ăn mùng mền trong nhà kiên giam vì quá đói và nhai hoài thấy ngọt làm sao. Tù nhân khác cũng án 20 năm, do bị giam giữ lâu dài tại nhà kỷ luật, khoảng ba năm, bị tê liệt hai chân, cơ thể co rút lại, da bọc xương, đôi mắt sâu chỉ còn nhìn thấy đôi chút tròng trắng lộ ra nói lên khát vọng xin được sống. Lúc nào anh cũng chắp miệng than có cái gì làm nóng ran trong người, nhức nhối như kim chích khắp toàn thân. Một lão ông án 20 năm, đang ngồi theo đội ngũ chờ lao động khổ sai, bật ngửa té ngã vì đột qụy, về sau bán thân bất toại, lúc nào cũng kêu đau nhức toàn thân, điện giựt trong đầu và than: chết, chết thường xuyên... hay kể những giấc mơ biến thành cây cỏ của mình như một linh cảm đến sự đi xa mãi mãi về hư vô của chính ông .
Các học thuyết mọc lên rất nhiều trong tù vì “các lý thuyết gia” luôn lo âu cho một dân tộc không có cây gậy dẫn đường, nên nặn ra đủ mọi thứ tư tưởng, như học thuyết Đại đồng của một Nhà sư thuộc môn phái Phật Giáo Cổ Sơ Môn. Học thuyết Liên Tôn, học thuyết Nhân bản Tiến bộ, học thuyết Duy Dân của vài Linh Mục. Học thuyết Hoà giải Dân tộc. Học thuyết Bình sản, cả tư tưởng của Hồ Quý Ly về tiền tệ cũng được vực dậy.v.v.  Nhưng nội dung của nó không có gì mới lạ hoặc chỉ là những nét phát thảo, hình thành trong lo âu tưởng tượng thái quá so với khả năng tri thức của chính mình. Mặc dù vậy, họ cũng mất ăn, mất ngủ... thậm chí có khi bị kỷ luật đến mất mạng trong khi nó chỉ là “đầu voi đuôi chuột”.
Các tù nhân chết trong tù vì chứng tim mạch, áp huyết cao rất phổ biến. Thậm chí có nhiều trường hợp các tù nhân phải uống nước muối từ sáng sớm, để huyết áp tăng cao khi khám bệnh sẽ được nghỉ lao động khổ sai trong ngày hôm ấy, hoặc ngồi thiền luyện khí công đưa nhiệt độ cơ thể lên ba mươi tám đến ba mươi chín độ C... để được nghỉ trong ngày vì quá sợ lao động.
Xao xuyến cũng có thể bắt nguồn từ những bực tức, bị ức chế, đè nén, không nói ra được... Cụ thể mỗi chiều trước lúc điểm danh, dù chỉ vài phút ngắn ngủi, các tù nhân hay tràn ra hành lang để trao đổi thông tin, sưởi ấm cho nhau về tinh thần. Thái độ hoang mang, xao xuyến thấy rõ khi có tù nhân nào vừa mới thăm nuôi, những người khác luôn tìm gặp để thăm dò tin tức về thế giới bên ngoài, nhằm trấn an chính mình vì lúc nào cũng lo âu sợ hãi. Nên mới có câu khẩu hiệu luôn xuất hiện trước các trại giam: An tâm cải tạo...
Ảo tưởng lời nói, người tù nghe rất rõ lời nói, nhưng nghe sai lệch câu này thành câu khác. Trong hoang tưởng thường người bệnh không nghe rõ mà hay suy đoán câu chuyện qua thái độ người chung quanh hay nghe rõ ràng câu nói nhưng tìm một ý nghĩa cho câu nói đó theo nội dung hoang tưởng của mình. Về phía các cán bộ quản lý trại giam bao giờ cũng đầy thành kiến đối với các tù nhân, mọi quan điểm đến hành vi của tù đều là láo, phản động... Nên câu nói mở đầu thay lời chào khi gặp các tù nhân: mày tao, thằng nầy thằng nọ, đồ láo khoét... Khi các tù nhân khai bệnh đều bị nghi ngờ là giả vờ để trốn tránh lao động, như có tù nhân bị mù, bị điếc thì cho là đóng kịch và có chuyện đã xảy ra: cán bộ y tế trại giam đã dùng que tre thọt vào tai của bệnh nhân để xem có điếc thật hay không, cũng như dùng kim chích nhẹ vào mắt để xem có mù thật sự hay không. Quả thật, họ chỉ còn biết than trời và kêu thành tiếng “nghiệp báo, nghiệp báo”, như tiếng than của người từng phụ trách Nha cải huấn chế độ miền Nam trước đây: “Vì ngày trước ta đã chích con người thế nào, nay họ đã chích lại ta thế ấy”. 
Ảo tưởng kỳ lạ thường xuất hiện trong trạng thái mê sảng ở các bệnh tâm thần cấp tính. Đó là những ảo tưởng rất phong phú, kỳ lạ xuất hiện ngoài ý muốn người bệnh một cách dồn dập như thấy bóng đèn chiếu sáng lập loè thì bảo là hào quang của tiên thánh, thấy bóng đen thì bảo là quái vật, thấy sự biến đổi của mây trôi thì bảo là hình ảnh của thần linh đang di chuyển. Những “Ông Đạo” trong tù, các tù nhân nầy thường ngồi toạ thiền, và sau những lần nhắm mắt cùng cái đầu gật gật... Theo lời kể những giây phút siêu thoát ấy thật tuyệt vời: họ đã gặp hết vị tiên nầy đến vị tiên khác. Các tù nhân nầy lúc nào tâm thần họ cũng như trong mơ, ánh mắt luôn lờ đờ lim dim, huyền ảo.
     Ảo giác như có thật về một sự vật, một hiện tượng không hề có trong thực tế khách quan gần như một thái độ ngụy tín. Ảo giác nầy xuất hiện và mất đi không phụ thuộc theo ý muốn của người bệnh. Ảo giác có thể kèm theo rối loạn ý thức như mê sảng hoặc kèm theo rối loạn tư duy như hoang  tưởng. Trong tù xuất hiện rất nhiều giáo chủ và các kẻ xưng vương, họ là: một hạ sĩ trong chế độ miền Nam trước đây, với ước mơ của anh là được làm sĩ quan cấp tá. Nhân có lời kêu gọi của chính quyền mới yêu cầu các sĩ quan trong chế độ cũ phải ra trình diện, y tự xưng là thiếu tá và cũng từ đó y nhận lãnh hết án tập trung nầy đến án tập trung khác. Vào tù lúc nào y cũng cho rằng mình là một hoàng tử hoá thân vào nhà tù để cùng sống với thần dân... Và cách sống của người tù nầy cũng rất “Hoàng tử”, như có thăm nuôi là phân phát hết cho người kém may mắn, giúp đỡ mọi người một cách ân cần trong cách thế của người trên đối với bề dưới, dù chỉ mới chưa đầy 30 khi mới vào tù. Một trung sĩ khác, án 20 năm, lúc nào cũng nghĩ mình đang là một nhân vật có tầm cỡ từ thứ trưởng trở lên, thực tế chỉ ở cấp hạ sĩ quan, trong cách sống luôn cố đóng vai cho có vẻ bộ trưởng... Tất nhiên vì là ảo giác thật nên với người chung quanh là không thật đến lố bịch. 
Ảo giác giả cũng như ảo giác thật mang tính chất cụ thể, nhưng khác với ảo giác thật là hình ảnh ảo giác không phải từ ngoài đến mà lại khu trú trong đầu, từ trong cơ thể phát ra, bệnh nhân nhận thức được chúng không phải bằng giác quan mà bằng trong ý nghĩ như người bệnh nghe tiếng nói từ trong đầu. Có tù nhân án 20 năm, bị đánh đập khi trốn trại về sau mắc chứng trầm uất, lúc nào miệng cũng lầm bầm như đang nói chuyện với người yêu, hoặc với thần thánh. Họ thích ngồi một mình, mắt nhìn lên trời hay nhìn chăm chăm xuống mặt đất như đang nghe lời đối thoại. Có tù nhân lúc nào miệng cũng lầm bầm như đang nghe và đáp lại lời của những người ngoài vũ trụ. Hoặc bất chợt kể cho mọi người nghe, họ vừa nghe tiếng nói của các vị tiên về mách bảo gì đó... Khi có tiếng thoảng qua lùm cây, bụi cỏ... họ cho đó là hiện tượng có tiên thánh đi ngang qua. Có tù nhân thỉnh thoảng trong giấc ngủ bừng tỉnh dậy và la lớn: chúng giết tôi, chúng giết tôi... và tôi đã nghe rõ tiếng lên cò bóp đạn của bọn chúng. Thật sự những âm thanh ấy chỉ có từ trong tiềm thức của người tù nầy, các bạn tù khác vẫn yên giấc và không nghe thấy gì cả. Một ông lão án 20 năm, thăm nuôi thường xuyên, nhưng lại chôm chỉa đồ ăn của người khác. Trong các cuộc họp kiểm điểm việc ăn cắp, ông nói: có tiếng gọi từ xa đến và bảo ông làm như thế... rồi ngã vật người ra vì chứng tim mạch. Các tù nhân khác vì lý do nhân đạo không ai dám phê bình gì cả. Một tù nhân khác án 12 năm, thường xuyên nhảy vào nhà kho để ăn cắp đồ đạc của người khác, có khi trốn trong kho và nhai luôn gạo sống cho đến khi anh em đi tìm bắt gặp. Tù nhân nầy bảo có tiếng gọi và sai khiến anh ta. Người tù án chung thân tự tử nhiều lần: lần thứ nhất nhảy xuống giếng và được cứu sống. Trả lời câu hỏi tại sao, anh bảo: có tiếng gọi hãy làm để phản đối về sự đối xử quá tồi tệ đối với các tù nhân. Lần thứ hai, anh thắt cổ tự tử, và được phát hiện kịp thời. Anh trả lời: có tiếng gọi hãy làm điều đó để phản đối chế độ lao tù quá hà khắc và đòi hỏi nhân quyền cho con người. Lần thứ ba, anh đã nhảy vào chảo nước sôi, có lẽ cũng đòi hỏi quyền sống cho con người và anh đã ra đi vĩnh viễn. Một số tù nhân thuộc nhóm nầy luôn nằm co rút một chỗ, thường xuyên nằm bệnh xá vì các chứng nan y do lao động kiệt sức. Các y sĩ khuyên họ nên hoạt động, song các tù nhân nầy bảo: có tiếng gọi hãy nằm yên, nếu không chúng sẽ giết, hãy nằm yên và im lặng, đợi chờ. Còn vị Linh mục nguyên Giám đốc Trung tâm hành hương FATIMA, Sài Gòn, án tập trung, lúc nào trên các tờ kiểm điểm khai cung, Người cũng đề: “Mẹ sẽ thắng, Mẹ sẽ thắng...” thay cho tên nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Trong ánh mắt của vị Linh mục nầy như luôn có tiếng gọi: Mẹ đây, Mẹ sẽ thắng... Và tất nhiên vị Linh mục nầy đã bị kỷ luật sau mỗi lần ghi như thế. Linh Mục bất khuất Nguyễn Văn Luân, án chung thân, luôn đấu tranh cho quyền con người không mệt mỏi, ông tâm sự như luôn có tiếng gọi thôi thúc của nhiều người bất hạnh trên đất nước này, và Người đáp lời mà hành động. Trong suốt thời gian ở tù, hầu như lúc nào cũng bị kiên giam vì những đòi hỏi cho quyền sống của con người, đòi cải thiện chế độ lao tù .v.v. Và có một người ốm yếu ngoài 60 tuổi, nằm bệnh xá thường xuyên, ông lão luôn ngồi co rút cầu nguyện trong sự sợ hãi, ám ảnh chúng sẽ giết ông, ông nói: có tiếng gọi của Bề Trên nhắc nhở rằng: con hãy luôn tỉnh thức và cầu nguyện, chúng đang tìm mọi cách giết hại con.
Ảo thanh rất hay gặp trong bệnh tâm thần phân liệt và có thể là một triệu chứng khởi đầu của bệnh này. Ngoài ra ảo thanh còn gặp trong các bệnh loạn tâm thần phản ứng, loạn tâm thần trước tuổi già, loạn tâm thần do tổn thương ở não bộ: 
Trưởng trại Bảy đầu rìu, ngoài 60 tuổi, trại giam A30 ở miền Trung Việt Nam, lúc nào y cũng quát tháo, chửi mắng từ cán bộ đến tù nhân, như có tiếng gọi của đảng phải tỏ ra có uy quyền mới thực sự chứng tỏ mình đang nắm quyền lực. Ví dụ tù nhân sắp hàng đi chậm, y bảo đi như rùa; tù nhân đi nhanh, y bảo đi đâu mà như ăn cướp... đi ngay thẳng thì y bảo đi đâu mà như tù... không lúc nào mà y không la hét để chứng tỏ quyền lực, nhất là khi có biến cố gì đặc biệt như các tù nhân nổi loạn trốn trại, lúc đó miệng y cũng không ngớt réo vang lên các từ: cùm cùm, bắn bắn... 
Một hung thần khác ngoài 60, trưởng trại giam Xuân Phước, thuộc miền Trung Việt Nam, vào những năm cùng thời với Pôn Pốt ở Campuchia và nhiều năm sau đó. Sự đàn áp khét tiếng ở trại nầy dưới bàn tay quyền lực của y vào thời kỳ đó nên được mệnh danh là Thung Lũng Tử Thần, như có tiếng gọi của đảng phải tỏ ra có quyền lực, ta là đảng cầm quyền, dường như y luôn sẵn sàng có quyết định kỷ luật kiên giam đối với các tù nhân, nếu có báo cáo dù đúng sai không cần biết, trước hết với y là là mang đi cùm rồi nghiên cứu sau. Hậu quả là không biết có bao nhiêu người bị giam cầm trong nhà kỷ luật và đã chết rũ ở đó vì cái gọi là quyền lực chuyên chính vô sản trong tay y. Trong số các tù nhân bị giam giữ tại đây gồm Bộ trưởng, Thứ trưởng, Tỉnh trưởng, Quận trưởng, và các sĩ quan cao cấp Tướng tá. Do đó, y thường cười lớn một cách hãnh diện, hai hàm răng luôn khép lại, quả là ta có tướng mệnh cao nên mới cầm tinh loại nầy. Tính chất đặc biệt nơi các trưởng trại giam, kể cả y, đó là không ai chịu về hưu, dù tuổi tác đã cao, người nào cũng xin được phục vụ, cống hiến tiếp, vì dường như có tiếng nói từ trong những người nầy, theo cách chung tỏ lộ, nếu ta rời khỏi quyền lực thời không còn gì nữa hết, cũng như trong quan niệm của những kẻ vô thần: chết là hết. Tưởng cũng nên ghi lại tên thật của y là Nguyễn Văn Yên.
 Một Giám thị trưởng trại Thung Lũng Tử Thần vào thời điểm khác, thuộc miền Trung Việt Nam, như có tiếng gọi của đảng trong y: Ta đang cầm quyền và đang giang cánh tay quyền lực nên lúc nào y cũng quát tháo cán bộ và chửi bới tù nhân một cách thô tục, ngay cả với cán bộ nữ y cũng dùng những lời tục tĩu để la mắng mỗi khi gặp họ, những lời của y khó mà tường thuật lại.
Đặc biệt hành vi cử chỉ của các cai tù nầy đều mang tính chất bất bình thường, vì người nào cũng ăn nói rất tục tằn với phụ nữ ngay cả khi có mặt của các tù nhân khác, như một phó trưởng trại A30, thuộc miền Trung Vịêt Nam, y mắc chứng ho lao, đi lại rất khó khăn, thế nhưng cũng ráng mà gào lên để tỏ uy quyền, như có sự thôi thúc bên trong y: phải chứng tỏ ta có uy quyền. Y luôn tạo mâu thuẫn giữa các tù nhân để cai trị: luôn gọi người nầy đến người khác để tạo sự nghi ngờ giữa các tù nhân với nhau đến giết nhau. Những tù nhân càng uy tín, có địa vị từ ngoài xã hội, y càng mời lên làm việc nhiều hơn, để tạo sự ngờ vực và xói mòn uy tín người ấy. 
Trưởng trại nhà tù Z30D, thuộc miền Nam Trung bộ Việt Nam, ngoài tiếng kêu của lòng tham quyền lực, còn có cái gọi của dục vọng khả giác thấp hèn trong y, mà cũng là nét chung của các cán bộ trại giam về chuyện hủ hoá với phụ nữ, không một phụ nữ nào có nhan sắc chẳng may sa chân vào nơi đây mà lọt qua mắt bọn cai tù nầy. Theo lời của nhiều tù nhân nữ, tội trốn ra nước ngoài, trong khoảng tuổi hai mươi đã kể lại, mỗi lần các cô muốn đi phép về nhà, họ lên ngay văn phòng của viên giám thị trưởng rồi ôm đùi ông ta khóc sướt mướt... các cô gái nói thật rõ trước mặt nhiều tù nhân: “cho đến khi nước mắt như ướt cả đùi ông” và thế là được đi phép. Tất nhiên khi ra khỏi văn phòng sau đó, các trưởng trại này đều la lớn, quát tháo... Nó phát ra từ chứng ảo thanh về thính giác, ít nhất cũng là sự khởi đầu của chứng loạn tâm thần phản ứng, loạn tâm thần trước tuổi già.
Một Giám thị trưởng khác của trại Xuân Phước, thuộc miền Trung Vịêt Nam, đặc điểm y rất sợ về hưu, theo lời tâm sự của y với các tù nhân tự giác hay đi phép và tống quà cho y, vì nó là một sự chấm hết, nhất là y có cô vợ nhỏ còn trẻ cư ngụ gần trại giam... Y luôn uống rượu, khuôn mặt đỏ lên như thêm quyền lực cho cấp bậc đại tá của y một chút vốn đã là một hung thần của Thung Lũng Tử Thần, cũng hô hào, cũng la lối, và vỗ tay tự tán thưởng như biểu hiện của các triệu chứng về tâm thần. Nó là thứ ảo thanh, mọi thứ ngôn từ trong y phát ra để luôn chứng tỏ rằng: ta đang trị vì .
Phó trưởng trại trẻ tuổi, ngoài 30 tuổi, y quát tháo và chửi mắng các tù nhân đến mức họ đặt bí danh cho y là: Hùng La. Nhưng rồi mọi sự như không có gì khi không có y, cả cán bộ và tù nhân không ai sợ y, nó như một làn gió tỏ uy quyền thoảng qua. Điểm đặc biệt bà vợ thứ hai luôn tỏ uy quyền hơn y ngay cả trước mặt các tù nhân, bà luôn chửi đổng khi tù xuất trại đi ngang nhà để chứng tỏ ta thật sự mới là người đang có quyền lực hơn chồng về mọi chuyện. Trên tay bà thường có con dao phay sắc, nhọn và có khi rượt cả viên giám thị uy quyền nầy trước mặt các tù nhân.
Trưởng trại khác, nhà giam Cổn Sơn A30, thuộc miền Trung Việt Nam, y không la lớn và hô hào như các trưởng trại khác, có thể vì gia đình y là một gia đình vốn đã có quyền lực trong chế độ, song khuôn mặt đầy trầm ngâm của y như luôn mang theo tiếng nói từ bên trong: hãy cho chúng ăn thật ít và bắt chúng làm thật nhiều. Thật vậy, con người y cũng thâm độc và luôn chứng tỏ đầy quyền lực như các trưởng trại khác, y thường xuyên tổ chức những buổi học tập, mít tinh và xuất hiện trong cách thế đầy uy quyền. Các tù nhân đã chứng kiến cảnh vợ lớn và vợ bé của y đánh nhau và rượt chạy vào trại giam, có lẽ vì ít nói nên các tù nhân đã có chút cảm tình và giấu kỹ cô vợ nhỏ tại bệnh xá trại giam, ngày hôm sau của buổi đánh ghen, các tù nhân chứng kiến một chiếc xe con chạy vào trại giam, khi trở ra có một người phụ nữ trẻ cúi sạp mình xuống khi xe chạy ra khỏi cổng, tất cả những thứ ảo thanh của một thứ tâm lý thần kinh không bình thường, đó là ảo thanh của người vợ bé: ta có quyền yêu; ảo thanh của bà lớn: ta có quyền và được pháp luật công nhận; ảo thanh của kẻ đang cầm quyền: ta có toàn quyền. Đảng là ta. Và Đảng là trên hết. Ta đã cống hiến quá nhiều rồi, nay ta cần được hưởng một chút.
Một Phó trưởng trại nhà tù A30, thuộc miền Trung Việt Nam, cũng ít nói hơn các trưởng trại giam khác, nhưng sự khủng bố và đàn áp các tù nhân khủng khiếp đến mức mang bí danh “ Bố ráp”, trong y như có tiếng nói của sự trả thù, nên lúc nào y cũng tìm cách ghép tội, buộc tội các tù nhân vốn đã trong cảnh khốn cùng. Cụ thể khi gặp một tù nhân nào chưa kịp chào, hay được y hỏi: mầy đang làm gì đó mà chưa kịp trả lời hoặc trả lời thiếu chữ thưa dạ, thế là liền sau đó bị gọi lên làm việc, tất nhiên bị đi nhà kỷ luật về tội thiếu nếp sống văn hoá mới không lễ phép với cán bộ .
Ảo giác thị giác có thể làm người bệnh say mê, nhìn ngắm một cách thích thú hoặc ngơ ngác, bàng hoàng, sợ hãi... hoặc biến tha nhân thành những nỗi kinh hoàng như trong ảo giác của chính mình. Ảo thị hay gặp trong các bệnh tâm thần cấp như loạn tâm thần nhiễm trùng, nhiễm độc, đôi khi trong tâm thần phân liệt, loạn thần kinh hysteria.
Một cán bộ an ninh trại Thung Lũng Tử Thần, tuổi 30, lúc nào cũng rình rập, khủng bố các tù nhân như bắt gặp một tù nhân nào đứng lệch hàng ngũ, y liền doạ nạt kết tội chống đối. Y thường gợi ý các tù nhân nói chuyện, song nếu có sơ hở một tí như quên thưa trình, chắc chắn thế nào cũng bị qui kết về tội vi phạm nội qui và phải vào nhà kỷ luật ít ra một tuần lễ, quả thật cái nhìn của y với các tù nhân là đầy ảo giác sai lầm, thứ ảo giác lệch lạc từ tư tưởng đấu tranh giai cấp, những ai không cùng trên tảng băng giai cấp đều là kẻ thù đầy tội lỗi. Và trên cái nhìn bất bình thường nầy đã dẫn y đến việc nhận hối lộ của tù, bị bắt quả tang rồi bị sa thải sau đó. Tên của kẻ hung thần nầy không thể không ghi lại: Tiến lớn.
Cán bộ an ninh khác cũng ở trại Tử thần, tuổi 30, lúc nào khuôn mặt cũng hầm hầm, sát khí tìm cách hãm hại các tù nhân, trong con người y như đầy sự ảo thị, đến như hơi thở của tù cũng là tội lỗi, ví dụ như có tiếng ho hăng, tằng hắng khi xếp hàng, y cho là chống đối, vì đó là lá phổi của kẻ thù giai cấp, như nấu nướng sớm hay muộn một chút đều bị y qui kết tội âm mưu phá hoại, có ý đồ đốt phá trại giam, thấy tù nhân sắp xếp đồ đạc gọn gàng thì bảo là có ý trốn trại hay sao thế, còn lơ là một chút thì bảo sinh hoạt không phù hợp với nếp sống văn hoá mới. Tên của kẻ hung thần nầy không thể không ghi lại: Tiến nhỏ.
Cán bộ an ninh trại giam Thung Lũng Tử Thần khác, tuổi 30, lúc nào trong tay y như cũng có sẵn cây bút để ghi chép và buộc các tù nhân ký vào bản kiểm điểm, rồi vào nhà kỷ luật, y có trình độ hơn các cán bộ khác và thường những ai làm việc với y, kết quả cuối cùng bao giờ cũng là lời buộc tội phải ký vào biên bản kỷ luật. Trong y dường như mang đầy ảo giác: tất cả lời nói đến hành vi của các tù nhân đều là giả dối, nó là tàn dư của tư bản bốc lột, tội lỗi, nên không thể có một âm thanh, màu sắc, huơng vị tốt từ giai cấp nầy được. Tên của kẻ hung thần nầy không thể không ghi lại: Tri có học.
Một cán bộ an ninh trại giam Thung Lũng Tử Thần khác, khoảng 30 tuổi, con người rất lùn nầy hầu như rất tiết kiệm lời nói, chỉ dùng đồ vật như chìa khoá, ổ khoá, bất hoặc cái gì có sẵn trước mặt là y dùng để ném tù nhân đang làm việc với y. Trong y dường như có ảo giác về hình ảnh của các tù nhân: chúng không phải là con người mà là ký sinh, cặn bã xã hội... y thường dùng những lời đó để miệt thị tù nhân khi ném các đồ vật. Ngược lại y là kẻ chạy trốn nhanh nhất, kể cả chui rào khi thấy cấp trên. Và khi y cùng một số cán bộ chạy trốn như thế, họ lại cố làm như đang thanh tra phòng giam, trấn áp tù nhân với những cặp mắt láo liên, hối hả của thứ ảo giác bất thường. Tên của kẻ hung thần nầy không thể không ghi lại: Thi lùn. 
Một cán bộ khoảng 30 tuổi, an ninh trại Thung Lũng Tử Thần, có biệt danh là “Chính heo”, vì lúc nào cũng theo xin đồ ăn của các tù nhân mới thăm nuôi và xin rất nhiều qua trật tự thi đua vơ vét về cho y. Khi xét quà thăm gặp, y thường nói: quà tốt, ngon như thế nầy thì ngoài xã hội bốc lột biết dường nào. Thứ ảo giác sai lầm trong y đó còn thể hiện ở khu tập thể khi chồng của một phụ nữ là cán bộ đi công tác, y đã quan hệ bất chính và bị bắt quả tang. Song với phần lớn cán bộ ở khu tập thể nầy thì chuyện đó không có gì lạ lắm. Trong cách nhìn của các tù nhân: có phải đó là cách sinh hoạt của những kẻ duy vật, hay thế giới đã đổi thay trong quan hệ tình dục, mà các tù nhân ở đây thường thụ án trên cả chục năm.
Cán bộ Lâm, một tên đồ tể có lẽ ác nhất ở đây, phụ trách an ninh, trạc 30 tuổi, trong ánh mắt sâu chỉ có màu trắng và một chút con ngươi đen muốn chìm hẳn trên khuôn mặt gà mái, dường như y luôn có ảo giác quyền lực: đó là quyền giết người, Y không có nụ cười, con người ốm o, ho hăng khục khặc nầy lúc nào mở miệng ra là: cùm, cùm, cho nó chết... 
Nét chung về ngôn từ của bọn cán bộ trẻ nầy là không có từ nào về sống còn, sống sót, sống với, cứu người, giúp người.v.v. Đó là những từ quả là xa lạ với chúng. Những ai đã từng qua trại Thung Lũng Tử Thần, thật sự đều rùng mình khi nhớ lại từng cán bộ an ninh ở đây, mỗi tên đồ tể ấy đều có nét riêng của sự ác khác nhau. Và người ta không ghê tởm sự hôi thúi của xác chết bằng mùi tanh lạnh lùng của kẻ giết người, trước cái chết của đồng loại chúng còn nhân danh và nói: cái chết là xứng đáng, chúng bay đáng tội chết. Giết một người đã là khác thường, giết nhiều người gọi là có chính nghĩa? Đó quả là một thứ ảo giác của triệu chứng tâm thần thời đại.
Ảo giác khứu giác, người tù ngửi thấy nhiều mùi khác nhau như mùi hôi thối của trại giam, hơi ngột ngạt từ khu kỷ luật, mùi khói từ nhà bếp, mùi ghẻ lở... Mùi ngửi được thường là mùi khó chịu.
Các tù nhân dù trải qua các nhà kỷ luật từ lâu, song thứ mùi hôi tanh ấy vẫn còn cứ đeo đuổi họ mãi: cái mùi đặc biệt của con người khi vừa ăn vừa đi cầu trong một cái bát. Mùi hôi thối của những người làm phân xanh, lúc nào hai chân cũng đạp trên những bãi phân vàng do chính họ vừa mới thải ra hãy còn nóng. Thứ mùi đặc thù ấy cùng với vi trùng đủ loại như đã bám sâu vào da thịt tù, rồi từ trong phổi như luôn thở ra mùi hôi thúi. Các tù nhân dầm mình cày cấy trên đồng ruộng sình lầy, khiến họ luôn ngửi thấy mùi sình non bốc ra thở vào từ mũi họ.
Ảo vị thường đi đôi với ảo khứu, người bệnh cảm thấy một vị không có trong thức ăn, nước uống và vị đó thường là đắng, chua, cay. Ảo vị và ảo khứu có thể gặp trong tâm thần phân liệt, u não, động kinh. Các tù nhân thường có vị đắng trong miệng sau những lần bố ráp thường xuyên trong tù, vì mỗi lần như thế đều có sự mất mát về vật chất dù không là bao nhiêu, nhưng những cái cuối cùng thường vẫn là những cái rất lớn như các vật kỷ niệm, cái chén, cái bát, đôi đũa.v.v. kể cả những mất mát về tinh thần như đi kỷ luật kiên giam. Mỗi lần có sự chuyển phòng, chuyển trại, khám xét kiểm tra phòng giam... vị đắng như tiết ra từ khứu giác của các tù nhân. Mỗi khi nghe đọc giảm án hoặc tha tù, các tù nhân có cảm giác của vị chua, cay...  để được tha ra khỏi các Thung lũng tử thần.
Ảo giác xúc giác khiến người tù có cảm giác như kim châm, điên giựt, tê lạnh, ẩm ướt, nóng bỏng, sâu bọ bò trên da hay các vật lạ dưới da, có thể gặp trong loạn tâm thần nhiễm trùng, nhiễm độc và tâm thần phân liệt. Các tù nhân vì đói quá ăn phải khoai mì độc bị say, họ đều kể lại lúc đầu có cảm giác tê tê cái lưỡi đến co giựt, nóng bỏng trong người và trong da họ như có loài bò sát đang di chuyển. Tù nhân say nấm, nếu may mắn thoát chết, họ kể về cảm giác kim châm, lạnh toát trong người và có lúc nóng ran như điện giựt, cùng với ói mửa, sốt tiêu chảy. Các tù nhân bị đánh đập sau những lần hỏi cung, họ cảm thấy cơ thể như bị rã rời ra từng mảnh, da thịt bong đỏ đến bầm tím những nơi bị đánh và sự đau đớn đến tột cùng... Các thần kinh giựt lên trên não bộ như kim chích, và có tù nhân bị thoi vào bụng nhiều quá làm rối loạn đường ruột, nên lúc nào họ cũng có cảm giác đi cầu và thực tế các tù nhân đáng thương nầy bài tiết ra ngoài thường xuyên lúc nào không hay .
Ảo giác nội tạng: người tù cảm thấy rõ ràng trong người những dị vật, những sinh vật nằm yên hay động đậy. Các tù nhân bị tra tấn, bị kiên giam lâu ngày, nên mỗi khi thời tiết thay đổi họ có cảm giác cơ thể đau nhức vô cùng, như có ai đang tra tấn từ trong xương cốt của mình. Những người bị tra tấn bằng sắt đun qua lửa - sắt nung đỏ, mỗi khi thời tiết thay đổi, các tù nhân nầy thường la lớn và sự đau đớn tột cùng như có ai đang tra tấn đốt cháy trên toàn thân họ, kể cả những ấn tượng về mùi thịt cháy khét cùng tiếng nổ của da thịt khi bị nướng bung lên như đang hiện ra trước mắt họ.
Ảo thanh giả là một hội chứng của tâm thần tự động, các tử tù luôn ám ảnh về cái chết, nên mỗi khi có sự sột soạt khua ổ khoá lúc đêm khuya, họ sẽ nghĩ là mình sắp bị mang ra trường bắn. Các tù nhân sau khi bị thẩm vấn, bị kết cung, nhất là khi nghe cáo trạng, sau đó họ bị ám ảnh liên tục về ngày ra toà. Về phía cán bộ trại giam luôn có thành kiến: tù là dơ dáy, tội lỗi, xấu xa... Thật vậy, môi trường trại giam nào cũng rất ẩm thấp, không đủ điều kiện vệ sinh, nhưng các tù nhân bao giờ cũng cố gắng vượt qua những gì bẩn thỉu nhất để sinh tồn. Các tù nhân thì cho rằng cán bộ trại giam xuất thân từ rừng rú, loài quỷ đỏ... nên lúc nào cũng ăn nói thô tục, quan hệ tình dục bừa bãi, các điều trên họ chứng kiến hằng ngày... nó như một thứ man dã, xấu xa vô cùng dưới mắt các tù nhân: những kẻ gọi là đi chuyển biến người khác đáng được cần phải cải tạo.
Ảo giác vận động người tù có cảm giác là những động tác nào đó không phải do ý muốn của mình mà do bị cưỡng bức, bị chi phối từ bên ngoài. Họ đang ngồi yên nhưng có cảm giác như ai đó làm tay chân họ vận động. Trưởng trại Bảy đầu rìu, vào lúc giữa đêm khuya thường chạy như tập thể dục xung quanh khắp trại giam, có khi chỉ mặc quần đùi áo cánh, song ông bảo: như có ai cảnh giác ông sắp có tù nhân trốn trại và chúng đang ẩn nấp đâu đây.
Các Trưởng trại trên miệng luôn lầm bầm, nhiều lúc họ nói những câu để chứng tỏ uy quyền mà có thể chính họ cũng không hiểu nội dung của câu nói mang ý nghĩa gì như:
- Ta thắng địch thua, Đế quốc Mỹ bỏ chạy... Trong khi câu chuyện ấy đã qua nhiều năm rồi.
- Năm nay có nhiều sự kiện lớn... Lúc nào, năm nào cũng với những câu nói đó và với hàm ý sẽ cho ăn nhiều.
- Chủ nghĩa Mác Lênin bách chiến, bách thắng muôn năm...Trong khi cộng sản Liên xô và Đông âu đã bị sụp đổ.
- Thậm chí những lời chửi thề rất tục tĩu luôn lập lại trên môi miệng của các cán bộ và giám thị.
Ảo giác lúc giả thức, giả ngủ là những phát minh không theo ý muốn xuất hiện trước khi ngủ. Những hình ảnh nầy hết sức đa dạng: những trang hoàng rực rỡ, những sinh vật kỳ quái, những phong cảnh... Vì những hình ảnh thuộc loại nầy không giống các đối tượng thực tế, nên chúng gần gũi với các ảo giác giả hơn. Các tù nhân bị kiên giam, hay nằm kỷ luật do mất ngủ, có khi ngủ ban ngày và thức suốt đêm, nên hầu hết mắc chứng nầy, cũng có khi từ những hư ảo, họ xây nên những toà lâu đài tưởng tượng, hay từ những phác hoạ tưởng tượng của tư duy đến hoang tưởng, rồi thiếp đi trong giấc ngủ. Các giáo chủ tự xưng đều có sự ảo giác nầy trong giấc ngủ, vì họ thường kể lại như sau: đêm qua câu chuyện đã xảy ra như thế nầy, thế khác... mà thường là những cuộc gặp với những nhân vật thuộc thế giới bên kia.
Ảo giác chức năng chỉ xuất hiện khi có kích thích thực tế bên ngoài và tồn tại song song với kích thích đó cho đến khi nó hết tác động. Đồng thời với tiếng: Ban đến, nghĩa là  trưởng, phó trại giam đang đến và nó cũng đồng thời với những tiếng chửi rủa sắp xảy ra. Đồng thời với tiếng kẻng điểm danh là tiếng quát mắng, hối thúc, chuẩn bị vào chuồng, tức vào nhà giam riêng và đóng thật kín lại vào ban đêm. Đồng thời với thông báo có lệnh họp, nghĩa là sẽ có kiểm điểm, xâu xé nhau.
Cảm giác biến hình, rối loạn nầy thường kèm theo loạn cảm giác về khoảng cách. Khoảng cách dường như rút ngắn, mọi vật xích lại gần nhau, hoặc khoảng cách dài ra, vật cách xa nhau, những con đường nhỏ trong trại giam như dài vô tận, các toà nhà cao lên đến chọc trời.
Rối loạn sơ đồ thân thể thường xuất hiện với cảm giác biến hình. Có thể gặp trong loạn tâm thần do tổn thương thực thể não bộ, bệnh tâm thần phân liệt cũng như trong các bệnh tâm thần thực nghiệm. Các tù nhân mắc chứng xơ gan cổ trướng, hay mắc chứng “sưng đầu voi” ở chân, họ thường có sự rối loạn nầy. Họ hay kể về các giấc mơ trong cơ thể mình có sự biến dạng kỳ lạ. Các tù nhân trốn trại khi bị bắt, họ bị đánh đập đến gần chết, những tù nhân nào còn sống sót thường hay mang chứng biến hình về cơ thể mình. Họ có cảm giác chung thân xác đã bị chia ra thành từng mảnh, rời xa khắp tứ chi, và thường xuyên cảm thấy đau đớn vô cùng. Một tù nhân án mười lăm năm, tuổi gần ba mươi, sau một thời gian lao cải anh bị xơ gan, bụng ngày càng to lên, da vàng, mắt vàng... anh hay kể lại những giấc mơ kỳ lạ trong đêm, cũng như những lúc anh thiếp đi trong mệt mỏi: nào cơ thể bị băm ra từng mảnh, bị tháo ra từng phần... cả cái đầu cũng bị rụng xuống.                                 
Trầm cảm là một tâm trạng buồn chán, một ấn tượng ảm đạm mơ hồ rằng thân thể đã đổi khác, như bị bỏ rơi, như mất mát một cái gì, không còn tự tin ở mình nữa. Ngoài ra, trầm cảm nặng có thể đưa đến tự sát. Các tù nhân bị giam giữ lâu ngày trở nên lầm lì, ít nói. Họ nhìn lại thân thể mình trở nên gầy mòn, già hẳn đi sau một thời gian ngắn bị giam giữ... trọng lượng cũng sút đi thấy rõ nơi mỗi người, nhất là các tù nhân bị kiên giam thường không nhìn thấy cơ thân của mình nữa. Hình ảnh của Linh mục cứu người – Huy Chương, người ta quen gọi vị Linh mục nầy như thế vì ông là chỗ dựa của những người di cư chạy trốn cộng sản từ Bắc vào Nam sau Hiệp định Genève 1954, tạm thời chia cắt Việt Nam thành hai miền tự do và cộng sản. Ngài ngoài sáu mươi tuổi, sau hai năm kiên giam, thân hình phù lên, mặt mũi tay chân đều sưng to, khi bệnh quá nặng được chuyển đến bệnh xá, gặp ai ông cũng chỉ vào đôi chân sưng to của mình, đôi mắt như trầm lắng cô đọng lại một cái gì đó mà người tù bất hạnh nầy không nói hết được. Các tù nhân kém may mắn, không được gia đình thăm thường xuyên hoặc mất liên lạc với người thân cũng thường mang chứng nầy. Một tù nhân tuổi trên ba mươi, mất liên lạc với gia đình, hay than vãn, buồn rầu và miệng luôn nói về chuyện tự sát, và đã tự tử nhiều lần nhưng bị phát hiện, nên không thành. Ánh mắt thường nhìn lên như nhìn vào một cõi xa xăm trầm buồn. Rất nhiều tù nhân thuộc loại nầy, đó là sau nhiều năm bị giam kín rồi lao động khổ sai, cơ thể người nào cũng đầy ghẻ chốc nhất là lác... họ hay ngồi một mình và xót xa cho tấm thân của mình, đôi mắt thường nhìn xuống trầm buồn gỡ từng mảng tế bào chết rời khỏi cơ thể. Một tù nhân bảy mươi tuổi, trước cái chết vì chứng tim mạch, hai bàn chân sưng húp trong một thời gian lâu dài, nhưng cụ rất bình thản đến đáng sợ cho đến phút ra đi. Còn có tù nhân đáng thương khác ngoài sáu mươi tuổi, trước cái chết vì chứng tim mạch, lao phổi, thân hình co rút lại với những cơn ho tuyệt vọng, nhưng ông vẫn giữ được bình tĩnh, xem cái chết nhẹ như tơ hồng.
Từ thái độ bàng quang đến phản ứng nội tâm bình tĩnh chờ đợi. Họ luôn phản ứng đứng đắn, nghiêm túc chờ đợi. Tiếp thu có nghiên cứu, suy xét ý kiến của cai tù, không phản ứng lung tung, nói năng đúng chỗ, và đã có nhận xét thì khó thay đổi, trầm lặng, khó tính. Đối với loại nầy, nếu người đi chuyển biến có uy tín, sẽ tác động tốt đến họ, tâm lý của họ sẽ được khôi phục sau những cú sốc đầu tiên không tránh khỏi của bất cứ ai khi mới vào tù. Nhưng thường bọn cai tù rất hớ hênh, kiêu ngạo, những “thiên lôi” vô học nầy vốn tiền hậu bất nhất, nên sẽ khó khôi phục niềm tin để chuyển hoá con người. Một tù nhân tuổi ba mươi, mặc dù án tử hình do trốn trại bị bắt trở lại, nhưng anh rất bình tĩnh, thản nhiên vì như thường xuyên có tiếng phát ra từ phòng kỷ luật nơi anh đang bị giam giữ: “Mình làm mình chịu, không xin ai hết...” Người tù bất hạnh nầy bị bắn không lâu sau khi phiên toà lưu động mở ra và xét xử ngay tại trại giam. Một tử tội khác tuổi ba mươi, vì đào thoát bị bắt lại, trong thời gian chờ đợi ra pháp trường anh luôn ca hát, vui vẻ... Thường xuyên có tiếng vọng ra từ phòng kỷ luật nơi anh đang bị cùm: “Chế độ toàn trị là thế thôi, nếu mình không thoát được thì chết...” Trước đó anh là tù nhân vượt biển bị bắt lại với án chung thân.
Trầm nhược và tự sát thường xuất hiện sau những thất bại liên tiếp, vì do kỳ vọng quá cao “tham vọng lớn, mất mát lớn”. Trong môi trường tù, các tham vọng nầy thường tự cá nhân đặt lên vai mình. Trầm nhược cũng có thể là một phản ứng đối với sự mất mát thực thể hay huyễn tưởng do xa cách người thân, mất tình yêu hay mất lòng tự trọng. Các tù nhân mắc chứng trầm nhược thường buồn rầu, ủ rũ, không tiếp xúc với ai, chán nản mệt nhọc. Một bạn tù trên bốn mươi tuổi, án hai mươi năm với những hoài vọng bị thất bại, bị bắn trọng thương lúc bị bắt, chân bị gãy dù đã lành nhưng mảnh đạn hãy còn bên trong, sự đau nhức thường xuyên cùng nhiều thất bại liên tiếp khiến anh trở nên trầm nhược, anh treo cổ tự sát nhiều lần nhưng được các bạn tù phát hiện kịp thời. Tù nhân trẻ có tên Phúc, tuổi ba mươi, án chung thân, kỳ vọng về một nền dân chủ thật sự và các công dân được hưởng những quyền cơ bản của con người, hầu như lúc nào anh cũng đăm chiêu về những vấn đề nầy, anh thích tự lập một mình, không xin ai một món gì và thậm chí trong lúc quá thiếu thốn, Thiện Nam nhận thấy anh đi bươi rác để nhặt những cộng rau muống già còn sót lại của các bạn tù khác đã vứt đi để mưu sinh, có lẽ anh không muốn làm phiền đến ai, trong những hoàn cảnh đáng thương như thế cũng có người lên giọng đạo đức với anh: tù chính trị mà làm như thế và lá thư cuối cùng trong trầm uất, thất vọng, anh đã tự tử ngay tại phòng giam của trại Thung Lũng Tử Thần.
Vô cảm dững dưng với tất cả những việc gì xảy ra chung quanh, hờ hững với hoàn cảnh của mình, không có gì gây được thích thú và phản ứng cảm xúc. Tù nhân thụ động lờ đờ, không thiết tha gì cả, thích nằm lì tại chỗ nếu có thể, hoặc ngồi lánh xa một góc nào đó như thường gặp trong tâm thần phân liệt. Sự vô cảm đến không còn cá tính. Cuộc sống mất tự do của các tù nhân, nó hạn chế mọi thứ đến mức tối đa như bữa cơm hằng ngày vắt lại bằng quả trứng vịt, với thức ăn là nước muối khiến các yếu tố bẩm sinh cũng như di truyền tàn lụi. “Hãy cho chúng ăn thật ít và bắt chúng làm thật nhiều”. Có một viên Trung tá khi vào tù đến bữa cơm đã yêu cầu phải dùng cân tiểu ly để chia cơm mới công bình, thật vậy các buổi chia cơm thường xảy ra những vụ đánh cãi chửi nhau... dù đây đó có người từng là các viên chức ngày trước. Một Thiếu úy cán binh cộng sản, án mười năm, trên bốn mươi tuổi, hầu như mất liên lạc hoàn toàn với gia đình, có lúc chính anh lại nhặt chính lá thư của mình gửi về gia đình bị vứt ngay nơi anh làm vệ sinh quanh phòng giám thị, sự chịu đựng trong những điều kiện quá khắc nghiệt khiến anh trở nên bất bình thường thấy rõ như miệng lúc nào cũng lầm bầm chửi bới chế độ: toàn là một lũ cướp, tham ô nhũng lạm, vốn là phần lớn phạm tội giết người rồi kéo vào chiến khu để dung thân và nay nắm chính quyền chứng nào tật nấy, tao rành tụi bay quá mà.v.v. Tù nhân nầy vốn là một sĩ quan cộng sản trong chiến khu về sau chống lại chế độ độc tài... Tù nhân trẻ khác, án hai mươi năm, tuổi hai mươi, mặc dù còn trẻ nhưng chỉ còn da bọc xương, sống nhờ vào các bạn tù, hầu như suốt ngày không nói tiếng nào, ai cho thứ gì thì mừng, ai nhờ việc gì thì giúp, kể cả các cai tù sai đâu chạy đó, mọi sự như phó mặc cho số phận.
Đàng khác, do phần lớn các quan hệ gia đình bị cắt đứt, như thư tín bị hạn chế nếu không nói bị cấm. Các tù nhân thường bắt gặp thư của chính họ hoặc từ gia đình gửi đến bị xé vứt lung tung có khi ngay cả trên đường đi đến hiện trường lao động. Ngoài ra do địa điểm của các nơi giam giữ quá hiểm trở, nên việc thăm gặp của người thân rất khó khăn. Có gia đình khi trở về mang theo bệnh tật do tai nạn, hoặc suýt mất mạng vì sốt rét rừng... Việc quan hệ gần gũi giữa các tù nhân cũng bị cấm đoán, nhiều tù nhân bị gọi đích danh và cấm hẳn việc quan hệ với mọi người. Có giai đoạn tại trại Thung Lũng Tử Thần chỉ cho phép thăm gặp ba tháng một lần và chỉ được nhận 3 kg quà tiếp tế từ gia đình. Một tù nhân, tuổi trên ba mươi, án mười lăm năm, hầu như không có sự liên lạc với gia đình, cơ thể anh gần như khô đét lại vì phải lao động khổ sai với vắt cơm cùng nước muối và rau trời. Anh trở nên trầm mặc ít nói, phó mặc theo tiếng kẻng dục lên thì đi, gọi về thì nằm phờ ra đó. Nhiều tù nhân, mỗi năm gia đình mới đến thăm, thêm các chứng lao phổi và suyễn, khiến họ trở nên ngày càng mệt mỏi, yếu dần, làm biếng nói năng, hầu như bàng quan với mọi thứ chung quanh.
Chính những yếu tố vật chất và tinh thần như thế khiến các tù nhân biến đổi dần đến thân xác còn đó nhưng vô hồn, mà nét chung về thể trạng của họ chỉ còn da bọc “thây ma”, hai má hóp vào, mắt lõm sâu, nước da xanh xao người nào cũng tái mét. Họ trở thành những hữu thể đặc thù trong sự triệt hạ của con người chứ không phải nhằm chữa trị con người. Và “vật cùng tất biến” như quan niệm triết lý Á đông. Các hữu thể đó được cải tạo dần đến mức không còn nhận ra chính mình rồi đi thật xa mãi mãi đến cái chết như vị Linh mục hùng biện một thời khả kính, Dòng Chúa Cứu thế, sau ba năm kiên giam cơ thân teo lại chỉ còn bé tí, rọm người lại, trông thấy rõ về sự khốn cùng của thân phận con người sắp chết đói. Hữu thể đó đã được cải tạo thành quái vật người trong nền văn hoá vật người. Nhiều tù nhân trên sáu mươi tuổi, án cao, gia đình hầu như rất khó khăn, nên bữa ăn chỉ có nước muối là chính cùng vắt cơm nhỏ, phần lớn áp huyết cao ngày càng cao hơn khiến họ thường bị đột quỵ và có cụ chết ngay sau giờ lao động khi ráng lê bước trở về.
Các yếu tố di truyền như thông minh, bén nhạy, sáng tạo... trong sinh hoạt hằng ngày chỉ còn ở mức thấp nhất. Phần lớn các tù nhân không còn năng lực để tư duy vì thức ăn chính yếu hằng ngày là khoai mì và lá mì làm dưa, nếu không muốn nói là tiêm chất độc dần vào cơ thể. Có tù nhân lùn, có lẽ anh ta lùn nhất ở trại Thung Lũng Tử Thần, tuổi hai mươi, án trên mười năm, chỉ còn biết lo cải thiện, anh hay nói: bây giờ chỉ có ăn, ăn để tồn tại còn mọi chuyện sẽ tính sau. Nhiều tù nhân khác, tuổi bốn mươi, án trên mười năm, có cùng quan điểm phát biểu: bây giờ không còn phải suy nghĩ gì nữa, chỉ mong sao cho qua ngày vì đã kiệt sức lắm rồi.
Việc giáo dục chỉ là phương tiện tuyên truyền lập đi, lập lại theo một khuôn mẫu không có gì mới, nhất là giữa lý thuyết và thực tế là sự khác biệt vô cùng. Trưởng trại Bảy đầu rìu, khi thăm các tù trọng án và bảo: các anh hãy bảo trọng... Nhưng y vừa rời khỏi phòng giam, các cán bộ của y đã mang cả giày ủng nhảy lên người các tù nhân đang bị cùm và đánh đá túi bụi khiến ai cũng một phen kinh hoàng và xảy ra lập đi lập lại như vậy thường xuyên. Đó là sự giáo dục, an ủi của những người cộng sản. Các buổi học tập chính trị thường xuyên được tổ chức như nào hiến pháp đều có ghi đầy đủ việc tôn trọng các quyền cơ bản của con người: tự do tôn giáo, hội họp, thông tin... Nhưng cụ thể khi gặp quý tăng ni, tu sĩ đang bị tù, các trưởng trại đều thường gọi là “thằng”, như trưởng trại Bảy khi gặp các Nhà sư còn gọi “ mày, tao”. Trong khi chính y vẫn thường xuyên tuyên bố trước toàn trại: Đảng ta rất tôn trọng tự do tôn giáo... Các tù nhân chỉ biết cúi đầu thầm lặng: những người cộng sản nói vậy, nhưng không phải dzậy! 
Con đường thật sự mở ra trong việc chuyển biến con người của chế độ toàn trị không phải là mở đường để tạo ra một khởi đầu mới mà nó là cái chết. Đó là sự hoàn tất tốt nhất trong việc trả thù. Sự khốn cùng của triết lý: đó là điều quan trọng không phải làm cho con người được sống và sự sống lại mà chết đi, chết lại nhiều lần và rồi chết thật. Một tù nhân rất trẻ, chưa ngoài ba mươi, đã chết vì bệnh chó dại ngay tại trại giam, nguyên do chính là giám thị trại giam không cho ra ngoài điều trị, họ buộc phải điều trị bằng thuốc Nam do một Nhà sư phụ trách về Đông y ở đây. Vị Đại đức nầy đứng ra lãnh trách nhiệm và sau nhiều thang thuốc Nam do ông chế... Song đúng ba tháng mười ngày thì tù nhân nầy trào nước bọt, tru tréo như chó rồi chết. Tù nhân đáng thương mang án phạt 11 năm, can tội chống chế độ. Còn Cha Luân bất khuất chỉ bị một mụt nhọt nhỏ ở lưng, thế nhưng không được chữa trị khiến vết ung lan dần cho đến lúc nhiễm trùng và chết. Khi sắp chết, Người được ra khỏi kiên giam, vào bệnh xá trại giam, vị Linh mục vẫn bình thản lạc quan nhắn nhủ những người Việt Nam hãy vì con người, và luôn đấu tranh cho quyền con người.
Những hình thức lao động khổ sai để trả thù như đập đá, ngâm mình trong sình lầy suốt tám tiếng mỗi ngày, chưa kể việc tranh thủ làm đêm. Các tù nhân thường phải đi sớm về muộn, những hôm nào có sương mù thì được đi trễ vì bọn cai tù sợ xảy ra trốn trại, rồi nhiều buổi chiều tối cho đến buổi chiều cuối cùng trúng phải nơi người tù bất hạnh nào đó thật là bi đát trong tiếng kêu tuyệt vọng: thôi chết cho khoẻ tấm thân hơn là sống với cái ác đến bi đát quá. Tù nhân Trần Xuân án tử hình, nguyên là một trong số các Viện trưởng kiểm sát của chế độ cộng sản, luôn nhắn nhủ các tù nhân khác về bản chất chế độ giam giữ trong chế độ chuyên chính vô sản: Đến đây thời ở lại đây... bao giờ bén rễ xanh cây mới về... Một Linh mục tuyên uý quân đội trong chế độ miền Nam trước đây, án tập trung, ngoài năm mươi tuổi, lao động đến kiệt sức do ngâm mình suốt ngày trên ruộng sình, lâu ngày bị sưng phổi, ho nhiều từng cơn rồi ói ra nước vàng và chết tại trại giam. Đặc biệt vị Linh mục nầy vẫn ung dung không van xin để nghỉ bịnh, Người vẫn đi làm khổ sai cho đến khi gục ngã. Đặc biệt hơn nữa, lúc chết đi Người được các cán bộ cộng sản chôn một nơi riêng cao ráo hơn và chôn sâu để chứng tỏ Nhà nước tôn trọng tôn giáo... Vì họ biết chắc thế nào cũng có ngày Toà Giám mục lên thăm. 
Mất cảm giác tâm thần là mất mọi phản ứng cảm xúc, nhưng nếu môi trường được thay đổi thì vẫn tiếp xúc được. Có loại mất hết phản ứng cảm xúc như trên nhưng lại còn cảm xúc đau khổ về hiện tượng mất cảm xúc của mình, triệu chứng nầy gọi là mất cảm xúc tâm thần đau khổ. Nhiều khi vì quá đau khổ mà người bệnh có hành vi tự sát. Triệu chứng nầy gặp trong loạn tâm thần hưng trầm cảm, trầm cảm thoái triển, tâm thần phân liệt. Các tù nhân do bị cùm lâu ngày trong nhà kỷ luật nên nửa thân người hầu như bị mất cảm giác, lúc ra khỏi kiên giam họ phải tập đứng ngồi ngay tại chỗ thật khó khăn, nhiều khi sự cử động làm toàn thân đau đớn khiến hầu như đều có lời than vãn muốn chết cho khoẻ. Một tù nhân trẻ, án chung thân, tuổi ba mươi, một chân mất cảm giác dần do bị bắn lúc bị bắt và mảnh đạn vẫn còn. Nỗi đau cùng sự tiếc rẻ về cái chân đang bị chết dần do không được chữa trị của mình... khiến anh có lúc nghĩ đến việc kết liễu cuộc đời .
Cảm xúc không ổn định, người tù dễ chuyển từ cảm xúc nầy đến cảm xúc khác một cách nhanh chóng, từ vui chuyển sang buồn, từ khóc sang cười, từ lạc quan sang bi quan. Thường gặp trong các bệnh có tổn thương thực thể não bộ, các trạng thái suy nhược. Có người bị mất vợ lúc ở tù, và một trường hợp tù nhân thuộc nhóm nầy, án hai mươi năm, tuổi bốn mươi, hầu như không có gia đình thăm viếng, có lúc thật vui vẻ, song có lúc lên cơn thật hung dữ sẽ gây gổ với bất cứ ai nếu có sự xích mích với anh ta. Người ta được biết sau khi được tha khỏi trại giam, anh đã dùng súng gây với công an địa phương và bị bắn chết ngay tại chỗ trên thành phố biển Nha Trang. Các bạn tù đã đoán trước được việc nầy và luôn khuyên anh ta nên kiềm chế khi trở về nhưng đã không tránh khỏi: viên công an nầy đã lấy vợ của anh trong lúc anh thụ án.
Cảm xúc say đắm là một trạng thái tăng cảm xúc mạnh có tính chất nhất thời. Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng vừa có ý nghĩa quan trọng trong đời sống, vừa có khả năng đem lại cho cá nhân một sự hấp dẫn về mặt tình cảm. Khi hứng thú con người có ý thức đầy đủ, có cảm xúc, cảm hứng đặc biệt với đối tượng. Nhà giam, nơi con người bị cưỡng chế, trấn áp, nên các tù nhân không còn hứng thú trong công việc bị áp đặt, hoặc có thái độ ngược lại và lấy đó làm thích thú. Các hành động phá hoại ngầm trở thành yếu tính của các tù nhân. Chính họ lấy làm hứng thú trong cuộc đấu tranh bất bạo động nầy để đối kháng lại với các cai tù. Sự hứng thú giúp con người vượt qua những khó khăn trở ngại, nó tăng sức đề kháng về nhiều mặt và kích thích con người hoạt động, hy vọng. Các tù nhân trẻ trong sự bí mật đầy hứng thú, hồi họp cùng các thanh niên ở các phòng khác đồng loạt tung bướm khắp toàn trại để phản kháng và đòi cải thiện chế độ lao tù... Họ vui vẻ tình nguyện giả vờ đánh nhau, hái dừa trộm cốt được kỷ luật để mang thuốc men, quần áo... cho các tù nhân bị kiên giam lâu dài. Họ đều ở lứa tuổi hai mươi.
Câu nói “nước sông công tù” là đặc trưng tinh thần làm việc của hầu hết các tù nhân: động tác lập đi, lập lại lờ đờ chậm chạp như đập xơ dừa đến tơi tả thành xơ... những nhác cuốc, đúng hơn là những “nhát gừng” mỗi khi vắng bóng cán bộ... thậm chí quét cái sân cũng sợ tốn sức lực. Thế nhưng, đào tường khoét vách để trốn trại thời rất nhanh nhẹn, thông minh, ý thức trỗi lên một cách toàn diện vì có hứng thú nhất là đứng trước sự sống còn. Cũng như những vụ đánh cắp hoa màu để mưu sinh thật là bén nhạy, các tù nhân dù chân chất đến đâu, sau một thời gian ở tù vì lý do sinh tồn đều biết đánh cắp hoa màu để tồn tại. Họ không còn mặc cảm tội lỗi vì như thế sẽ có thể đánh mất bản thân mình trong một tình huống nếu không ăn cắp cũng phải biết che dấu cho các tù nhân cùng cảnh ngộ, để cùng sống với nhau trong lúc đói khổ tột cùng. Một trường hợp đặc thù, người nầy tuổi ba mươi, từ án thấp và mỗi lần trốn trại bị tăng án đến chung thân. Bình thường trông rất lù đù, chậm chạp, nhưng không ai ngờ lúc bạo động trốn trại diễn ra, anh là người la lớn nhất và xông xáo vô cùng, mặc dù nhỏ con ốm yếu thật, song những tiếng hô hào vang dội, cổ động nhất đều phát ra từ anh. Lần trốn trại đưa anh lên chung thân, khi bị phát hiện và không thể chạy kịp, chính anh từng hô hào kích động trước đó thế nào thì lúc nầy lại kêu lớn ngược lại: cứu tôi với cán bộ ơi, bọn chúng đang đào thoát kia kìa... Cứu tôi với cán bộ ơi...
Hình ảnh cán bộ quản giáo và quản chế trong vụ bạo loạn trốn trại có tù nhân dạng đặc thù ở trên, tại Cổn Sơn, trước đó quản giáo nầy rất hung dữ, khắc nghiệt vô cùng với tù, nhưng vào lúc bạo loạn nổi lên y đã quá sợ hãi chạy tháo thân chui vào chuồng heo gần đó mà trốn, các tù nhân tự giác cũng nhớn nhác chạy theo, cho đến khi tình hình bị đảo ngược lại, người ta thấy cán bộ quản giáo nầy quần áo đầy phân heo và tiếp tục quát tháo. Các tù nhân nghe rất rõ tiếng y trả lời viên trưởng trại về việc: “ tại sao mày nhơ bẩn đến thế...” - “Dạ thưa... em đang phục kích”.


XXIV
RỐI LOẠN THẦN KINH

Các triệu chứng rối loạn cảm xúc, đối với một đối tượng, một sự việc nào đó lại có hai loại cảm xúc trái ngược nhau như vừa yêu vừa ghét, vừa thích cười vừa không thích, thường gặp trong tâm thần phân liệt. Các tù nhân thuộc các tổ chức khác nhau, họ luôn đùm bọc nhau trong cùng cảnh ngộ, nhưng lại không ưa nhau vì sự đố kỵ giữa tổ chức nầy với tổ chức khác, giữa mặt trận nầy và mặt trận kia. Tâm trạng chung của các tù nhân là mong sớm được đoàn tụ với gia đình nhưng lại ngại giảm án vì sợ mang tiếng xấu là không còn khí tiết, mất phẩm chất... Nhưng với những người cộng sản có “thủ tiết” thì lâu lâu họ cũng “đè ra” và giảm cho vài tháng, việc nầy giống như gắn huy chương cho những người vốn chế độ không ưa lúc sắp chết hoặc đã chết lâu rồi nhưng vẫn triệu hồn dậy rồi nhờ người thân đứng đỡ để gán. Vào thời gian có sự cởi mở, các tù nhân mừng được gặp và ở lại với gia đình cả tuần lễ tại nhà thăm gặp, nhưng ưu tư lo lắng vì các bạn tù khác sẽ nghĩ xấu về mình như đã biến chất nên mới được ra nhà hạnh phúc lâu đến thế. Một ít giáo viên và tu sĩ vào tù được cho dạy con cán bộ, dạng trí thức nầy không thiếu trong nơi khốn cùng, họ đảm trách công việc văn hoá, thông tin, đây là công việc thuộc loại “quí tộc” trong trại giam mà là trại Thung Lũng Tử Thần, không phải lao động khổ sai cũng như chết rũ trong kiên giam như các bạn tù hay Tu sĩ khác, trên nét mặt thường nghiêm nghị không ai biết được các vị nầy có khi nào nghĩ lại tại sao mình được ưu tiên đến thế, mà vốn cộng sản rất ghét Thiên Chúa giáo cũng như trí thức. Người ta chứng kiến chỉ một hai ba Tu sĩ  thuộc dạng nầy.
Cảm xúc trái ngược như nghe tin người thân mất mà lại tỏ vẻ mừng mừng, nhận được tin vui mà lại buồn rầu. Thường gặp trong bệnh tâm thần phân liệt. Các tù nhân bị giam giữ nơi những vùng núi non hiểm trở, mỗi khi gặp gia đình thường đều có sự vui mừng lẫn lộn vì các tin tức lành, dữ thường cô đọng lại có khi đến hai, ba năm mới gặp một lần. Do đó, trước các tin về người thân mất mát, họ thường tỏ vẻ tự an ủi: thôi ra đi cho khoẻ, sống mà khổ sở quá thà đừng nên sống. Thật vậy, cuộc sống quá khổ cực trong tù khiến họ liên tưởng đến người thân ngoài xã hội cũng như thế. Trước các tin mừng như con cái lập gia đình.v.v… họ cũng không vui, và thường là buồn rầu vì họ nghĩ đến ngày vui ấy không có sự hiện diện của mình. Trước các tin giảm án, họ cũng không thích, mặc dù có mừng vì rút ngắn được thời gian ở tù, nhưng những người trong tổ chức sẽ đánh giá mình tha hoá chăng? Ngược lại không giảm cũng buồn, vì không sớm được đoàn tụ với gia đình, nhưng cảm thấy vui qua sự tự an ủi: mình là người khí tiết, thủy chung  mới đến nông nỗi nầy.
Lo âu, người tù có cảm giác luôn luộn bị đe doạ bởi một cái gì rất đáng sợ. Hiện tượng nầy hay gặp trong nhiều bệnh tâm thần và là triệu chứng chủ yếu trong loạn thần kinh lo âu  như không biết sắp tới mình có được thăm gặp hay không, nào án cao quá không biết có ngày về, nhất là nếu hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ, sự việc khiến họ càng thêm bi quan, từ lo âu trở nên trầm cảm, ngoài giờ lao động họ thường trùm mền và nằm yên tại chỗ. Nhiều tù nhân án cao luôn tỏ nỗi băn khoăn lo lắng của mình với mọi người: nào không biết thư có đến được gia đình và tại sao trong một thời gian dài mình không nhận lá thư nào cả khi bị giam giữ nơi rừng sâu nước độc... không biết có ngày về hay không. Từ sự lo âu thái quá đến nóng nảy, họ thường hay gây gổ với các tù nhân khác, đánh nhau thường xuyên từ những nguyên nhân không đâu vào đâu cả. Sau những vụ ẩu đả, họ cũng nhận ra điều đó, nhưng cái nhiệt độ trên bốn mươi độ C vào trưa hè giữa rừng sâu... họ lại tiếp tục lo lắng, bực bội và lên cơn gây gổ... Các tù nhân luôn cảm nhận về các nguy cơ khó tránh, nhưng không xác định được đó là cái gì, kèm theo bực bội, cảm thấy bất lực trước nguy cơ đó. Lo âu nặng hơn sẽ kèm theo xao xuyến, cảm thấy hồi họp, ngộp thở, khó ngủ, mệt và khó chịu toàn thân, các tù nhân thường có hội chứng chung về sự mệt mỏi gọi là Oải.
Ngoài ra, các tù nhân thường cảm thấy thua thiệt trước những thất bại, họ tự ti, hoàn toàn lệ thuộc vào người khác, không còn tự lo được gì cả, nên ngoài giờ lao động, thời gian còn lại họ chỉ mong sao có ai gọi nhờ vả việc gì để làm cho qua ngày tháng, nhất là công việc nấu nướng hằng ngày tất cả đều rất thích. Nếu không có việc gì thì mang quần áo rách ra vá lại đến hết giờ. Họ có điểm chung nầy: hay ngồi thinh lặng mọi lúc có thể để lần hạt đọc kinh lẩm nhẩm trong miệng hay niệm Phật... Họ phó thác tất cả: Con xin vâng.
Xao xuyến cũng có thể bắt nguồn từ những bực tức, bị ức chế, đè nén không hiện ra được, không nói ra được... mà có nói ra nếu không khéo lọt đến tai của quản lý trại giam có thể bị cùm kẹp, kỷ luật. Đặc biệt, ở trại giam cán bộ quản giáo chỉ làm tăng thêm sự xao xuyến lo âu chứ không làm giảm nhẹ, thật vậy lúc nào họ cũng gây nên các khó khăn cho tù, khủng bố, đe doạ bằng mọi cách. Từ khi xuất trại, trên hiện trường lao động, đến lúc trở về, các tù nhân chỉ nghe thấy toàn một thứ ngôn ngữ thúc dục, chửi bới, la mắng, đe doạ từ miệng của các quản giáo và quản chế như: nhanh lên, đá cho nó vài đá, thằng nào chống đối hãy bước ra đây, cho nó vào nhà cùm, không lao động cúp thăm nuôi, không cho nhận quà, không được nhận thư, viết thư.v.v. Thật sự những vụ đấm đá xảy ra thường ngày, có khi quản giáo, quản chế mới học võ ngứa ngáy tay chân hay gọi các tù nhân vào giữa các lùm cây rồi đánh đá cho đã tay chân... Khiến các tù nhân mỗi khi xuất trại, nhất là ở các đội trọng án thường lo âu, xao xuyến đến sợ hãi vô cùng.
- Cán bộ Nhàn quản giáo đội trọng án tại trại A30, thuộc miền Trung Việt Nam, đánh đập, khủng bố tù nhân một cách tàn nhẫn. Tuổi chưa tới ba mươi.
- Cán bộ Thẩm, cũng như cán bộ Nhàn nêu trên.
- Cán bộ Nên, cũng như cán bộ Nhàn, Thẩm nêu trên, ngoài việc đánh đập còn cắt cả nhượng chân của các tù nhân trốn trại bị bắt lại.
- Cán bộ Lâm, Thi, tuổi chưa đến ba mươi, phụ trách an ninh của trại Thung lũng tử thần thì mỗi khi làm việc với ai, thường dùng roi điện và bắt nằm xuống đánh cho hộc máu, bầm mình rồi dẫn vào nhà cùm mới buông, hai hung thần nầy đều nhỏ con, nước da lúc nào cũng tái mét, đặc biệt Thi chỉ cao hơn một mét, và cũng là một trong những cán bộ đã đánh nhiều người đến hộc máu và chết trong đó có Linh mục Quang Minh. Con người sinh ra vốn làm điều thiện và một đôi khi phạm phải điều ác, nhưng với những con người nầy hầu như không bao giờ biết làm lành, chúng sinh ra chỉ để làm điều ác sao mà ác thế. Cũng giống như cụ Tôn nọ, tuổi ngoài bảy mươi, cộng tác đắc lực với các cai tù trong việc bách hại tù nhân, khi bị phê phán, cụ tuyên bố luôn: “Từ khi sinh ra đến giờ tôi chưa từng biết làm điều thiện”.
Rối loạn tư duy qua ngôn ngữ như tư duy phi tán, quá trình liên tưởng của người bệnh rất nhanh chóng, các ý nghĩ, nhận xét xuất hiện nối tiếp nhau mau lẹ và nông cạn trong đầu óc các tù nhân loại nầy. Ý tưởng họ luôn luôn thay đổi theo tác động bên ngoài. Trường hợp nầy có thể gọi là cơn lốc của tư duy. Họ nói thao thao bất tuyệt, việc nọ chưa xong đã nói sang việc kia, không có một chủ đề nào nhất định cả. Thường gặp trong trạng thái hưng cảm, có người nói hứng thú đến lắp bắp, kẻ khác nói hứng thú đến các răng cà như đánh nhịp san sát với nhau.
Tư duy dồn dập, các tù nhân loại nầy trong đầu óc luôn dồn dập đủ mọi ý nghĩ. Những ý nghĩ nầy xuất hiện ngoài ý muốn và người bệnh không sao ngăn cản được. Họ luôn luôn nghĩ trong đầu mà theo họ không thể viết ra hết đựợc, nào hết học thuyết nầy đến học thuyết nọ, nào chương trình kinh tế vĩ mô nầy đến chương trình kinh tế khác, nền đạo đức nhân bản nầy đến nhân văn kia. Và trong cái đói cồn cào của bao tử khiến tư duy không ngớt nghĩ về các món ăn và cách nấu nướng... Hầu hết các tù nhân đều luôn có ý nghĩ miên man về mọi vấn đề mà thực chất không hình thành đến đâu cả, nhưng cứ suy tư. Họ cho biết: nằm suy nghĩ hết chuyện nầy đến chuyện khác đầy những toà lâu đài tưởng tượng nhưng không đâu vào đâu cả... Nhất là lúc nằm kiên giam chỉ có ngủ và nghĩ ngợi về đủ mọi thứ chuyện... non sông đất nước, nó như là cái nghiệp của đời mình, nhưng nghĩ mãi không đâu đến đâu cả vì cái học của mình quá ít, không thể hình thành các tư tưởng cũng như các học thuyết được. May ra nó chỉ có tên mà không có nội dung.
Nói hổ lốn, người tù nói luôn mồm, ý tưởng linh tinh và nội dung vô nghĩa. Gặp trong bệnh tâm thần phân liệt và trong trạng thái tâm thần sa sút. Có một số tù nhân nói luôn mồm nhưng không có nội dung. Những ý tưởng về mọi thứ nhưng không rõ ràng, như thường phê phán về nhân vật chính trị nầy hoặc chính khách nọ. Nói xấu hết người này đến người khác và cuối cùng nói xấu lẫn nhau. Hầu như trong lĩnh vực chính trị không có sự nghĩ tốt về người khác. Như thường tung ra các tin tức thời sự suy diễn theo các bản tin chính thức của nhà nước như nào có tin đồn như thế nầy thế nọ, thậm chí  các bạn tù thường kháo với nhau về loại người đó: “vừa vào nhà vệ sinh xong trở ra đã có tin mới”... Tù nhân thuộc nhóm nầy nói luôn mồm, nhưng những ý tưởng không có chủ đề gặp đâu nói đó, nói trước quên sau. Họ có thể nói suốt ngày, gặp ai cũng có chuyện để nói mà nội dung thật sự không có gì cả ngoài mấy cụm từ: ăn chưa, ngủ chưa, bao giờ gia đình đến, mệt quá, thật là oải...
Về phía cán bộ trại giam, họ nói nhiều hơn ai hết với những lời sáo rỗng thuộc lòng, những danh từ triết học cao xa mà thật sự chính họ cũng không hiểu nó mang ý nghĩa gì, rõ nét nhất qua phát biểu của một anh cán bộ ở cấp thấp là quản chế cũng phát biểu như các lãnh tụ của chúng: các anh phải cố gắng lên, chúng ta tiến lên xã hội chủ nghĩa không thông qua tư bản chủ nghĩa, chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ.v.v. Một Cán bộ, tuổi ba mươi, nhưng nhìn bề ngoài thật khó đoán về tuổi tác, những cán bộ quản lý trại giam cũng như các cư dân quanh vùng trong thời kỳ “quá độ” này, vì họ có cuộc sống quá cơ cực nơi rừng sâu nước độc, nên đều lão hoá trước tuổi rất nhiều. Có câu chuyện thường kể lại giữa các tù nhân: một hôm trên đường lao động, các tù nhân chào người phụ nữ đi ngang qua “Mẹ đi đâu đó...”. Nhưng người phụ nữ nầy liền đính chính ngay: “Tôi năm nay chỉ mới ba mươi...” vì người chào ngoài bốn mươi... Cán bộ lão hoá thật sự mới ba mươi nầy đánh tù rất dữ và thường thích đánh ở hai đầu gối, có khi sưng to thành đầu voi, nhưng đặc biệt khi nghe giọng nói địa phương của y là hết đánh nguyên văn: “Mi ở Quoảng hả... tau thoa cho mi...” Rồi y thường thuyết giảng về chủ nghĩa Mác Lê nin bách chiến, bách thắng, đừng chạy theo tư tưởng Phương Tây, về cải tạo chỉ có hai con đường hoặc về với gia đình hoặc ra lô sáu tức nghĩa địa mà nằm. Cũng như các cán bộ quản giáo khác khi trở về “ vùng lãnh địa của ta”, y có cò mồi riêng luôn vòi vĩnh quà của các tù nhân mới thăm đem cống nạp cho y... Một cán bộ khác, phụ trách an ninh trại Xuân Lộc thuộc miền Nam Việt Nam, miệng luôn mồm nói về con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản, lúc đó của cải như không khí, con người như thánh hiền.v.v. nhưng hằng ngày chỉ thấy y là một hung thần, hoặc làm ra của cải đâu không thấy, song chỉ toan vòi vĩnh xin quà của các tù nhân. Và đối với các cán bộ nầy khi nói về những vấn đề như thế là một vinh dự, còn xin quà tước đoạt của tù nhân thì đó là vì cuộc sống “cộng sinh, cộng sản là của cải chung, nên đóng góp vào...” Y cười và nói thoả mái.
Tư duy chậm chạp, các tù nhân sau một thời gian dài bị giam giữ, do bị tra tấn, thiếu dinh dưỡng trầm trọng thường dẫn đến tư duy chậm chạp, nó trái ngược với tư duy phi tán, quá trình liên tưởng ở người bệnh hết sức chậm. Họ suy nghĩ khó khăn, chậm chạp, nội dung đơn điệu, nghèo nàn. Các tù nhân rơi vào chứng nầy nói rất chậm, dừng lại rất lâu sau mỗi câu nói, hỏi mãi mới trả lời. Thường gặp trong trạng thái trầm cảm. Họ có đôi mắt lõm sâu không phải vì mất ngủ mà chính vì thiếu ăn, và một khi thiếu ăn thì có muốn ngủ cũng khó an giấc. Mỗi khi ai nói hay nhắc nhở điều gì, các tù nhân nầy thường ngước mắt nhìn lên có khi há hốc mồm một lúc lâu mới hiểu ra vấn đề. Và để có được câu trả lời phải mất ít phút, còn với những câu phức hoặc những vấn đề phức tạp thì dường như họ không nghĩ ra được. Nên trong mẫu đối thoại những người thuộc nhóm nầy thường có câu hỏi đuôi: ai nói gì vậy ?
Tư duy ngắt quãng, người tù trong khi đang nói chuyện, dòng ý tưởng bị ngắt quãng làm cho họ dừng lại không nói được, mãi về sau mới tiếp tục nói đôi lời, hoặc bỏ dở câu nói trước sang chuyện khác. Thường gặp trong bệnh tâm thần phân liệt. Một Linh mục, ngoài bốn mươi, sau ba năm kiên giam vì bị vu oan âm mưu thành lập chính phủ trong tù với chức vụ Thủ tướng, khi tiếp xúc với ai, suy nghĩ của Người luôn bị cách quãng và lời nói cũng bị cắt đứt, đang nói vấn đề nầy bỗng quên mất rồi chuyển sang chuyện khác, một hồi lâu lại chuyển sang chuyện cũ. Tù nhân khác, án hai mươi năm, tuổi năm mươi, dưới ánh mắt sâu của cặp kính cận sau hơn chục năm trong các trại lao cải, vị Y sĩ trưởng một bệnh xá ở trại Thung Lũng Tử Thần tư duy luôn bị ngắt quãng, mỗi khi muốn diễn đạt điều gì, hoặc đang nói chuyện với ai thì quên bẵng không biết mình đang nói gì, mãi một hồi lâu mới nhớ lại và tiếp tục câu chuyện. Ông cứ thanh minh như một thái độ phân trần: Ở tù lâu, nó là như thế.
Tư duy lải nhải, các tù nhân kể một cách tỉ mỉ những chi tiết thứ yếu của sự việc và rất khó chuyển sang nội dung chủ yếu. Ta rất khó lòng nghe hết những lời kể của các tù nhân loại nầy. Thường gặp trong bệnh động kinh. Đặc điểm của loại nầy là các tù nhân rất thích kể về quá khứ. Các tù nhân cao niên luôn kể về quá khứ của mình một cách say sưa và cứ lập đi lập lại như thế, đó là câu chuyện của các cụ già lải nhải, có khi thật lẩm cẩm, song cũng là dịp các cò trong tù dùng nó để hù doạ họ: cải tạo mà còn nhớ về quá khứ, rồi chúng mang các thứ quà của các ông già sợ hãi đáng thương đó đem nộp cho “đại ca cán bộ” của chúng.
Tư duy kiên định, các tù nhân mang chứng nầy luôn luôn lập lại một chủ đề nhất định, biểu hiện rõ trong khi nói chuyện hoặc trả lời thầy thuốc. Gặp trong chứng hoang tưởng của bệnh tâm thần phân liệt, loạn tâm thần phản ứng nhân cách bệnh. Do sự cảnh giác quá cao trước sự chụp mũ bất cứ lúc nào của các cán bộ cộng sản, nỗi ám ảnh về sự kiên giam lâu dài, khiến họ nhất cử, nhất động đều trả lời không biết, không nghe, không thấy. Mặc dù đóng vai như thế sẽ giúp họ được yên thân trong những ngày tù lâu dài, song theo thời gian nhóm tù nhân nầy trở nên trầm cảm, ít nói, lủi thủi, ẩn thân một mình. Cũng như các tù nhân khác vì quá sợ lao động khổ sai, nên giả vờ đóng vai bệnh nặng hơn, họ có cách thở do luyện tập giống như suyễn thật và mỗi lần đi khám bệnh có cách thở như thế sẽ được nghỉ trong ngày hôm ấy, do vậy khi bác sĩ hỏi họ chỉ có mấy câu trả lời thật gọn: mệt quá... rồi kéo... khò khè... Lần nào, ngày nào lúc nào đi khám bệnh tay cầm cuốn sổ và ngôn từ chỉ gọn bấy nhiêu.
Nói một mình, người tù nói lẩm bẩm một mình, nội dung không liên quan đến hoàn cảnh. Các tù nhân sau một thời gian phải chịu đựng lao động khổ sai, bị cách ly hoàn toàn với xã hội có người trở nên khủng hoảng, luôn nói một mình cả khi đi đứng mà không ai biết rõ nội dung là gì.
Nói tay đôi, các tù nhân loại nầy thường nói chuyện với một nhân vật tưởng tượng hay đang tranh luận với ảo thanh, gặp trong tâm thần phân liệt hoặc loạn tâm thần phản ứng. Họ thường ngồi Thiền và nói chuyện với một nhân vật hoang tưởng nào đó không ai biết, và theo họ mỗi lần ngồi toạ Thiền là nói chuyện với Thần tiên. Các tù nhân thuộc nhóm nầy sau thời gian ở tù quá lâu, họ trở nên trầm cảm, thường ẩn mình một chỗ sau giờ lao động và ngồi thì thầm với chính mình mà không ai biết rõ là gì.
Trả lời gián tiếp, hỏi một đàng, người bệnh trả lời một nẻo, không chú ý đến nội dung câu hỏi, gặp trong tâm thần phân liệt. Các tù nhân mắc chứng nầy hầu như không có sự thăm viếng của gia đình, hoàn toàn sống nhờ sự cải thiện rau cỏ ngoài trời, sau thời gian dài thiếu thốn vật chất, họ bị chứng ù tai, mắt mờ, tâm thần nghễnh ngãng, nghe một đàng hiểu một nẻo, hỏi việc nầy trả lời thế khác.. Đặc biệt lúc nào cũng có câu đệm : -Thế à... thế ạ... Một số tù nhân vượt biển hãy còn rất trẻ song do bị đánh đập thật tàn nhẫn lúc chấp cung, nhất là bị tra tấn bằng roi điện theo lời kể của những người trong tổ chức còn sống sót và chính họ sau đó chỉ còn nhớ là bị điện giựt nhảy tưng tưng lên mà thôi. Những ai muốn trao đổi chuyện gì họ thường hiểu rất ít người khác muốn gì, nên thường chỉ làm theo ý mình từ cách ăn uống đến sinh hoạt, như rau nhặt về chỉ rửa sơ và ăn chứ không chịu nấu chín... quần áo thì lại giặt giũ rất kỹ... ai hỏi gì thường không trả lời và sự trả lời thường là khác với nội dung câu hỏi. 
Không nói có nhiều nguyên nhân do hoang tưởng và ảo giác chi phối, do liệt cơ năng cơ quan phát âm, do hoạt động tâm thần sa sút, bị rối loạn nặng đến lú lẫn. Có tù nhân án trên mười lăm năm, sau một thời gian dài giam giữ, anh trở thành một cái xác không hồn, như người bị câm, suốt ngày không nói gì hết, cũng đi lao động như các bạn hữu, song ai muốn chọc ghẹo gì anh cũng không trả lời với nét mặt không khó chịu, nếu không nói là vẫn vui, giữ hoà khí với mọi người. Một tù nhân khác, án trên mười năm, tuổi ba mươi, sau một thời gian dài lao lý, anh trở nên trầm nhược, kể cả lúc vợ con đến thăm gặp người tù nầy cũng không nói năng gì cả khi trực tiếp đối thoại với vợ con... Và tù nhân bất thường nầy án hai mươi năm, tuổi bốn mươi, sau một thời bị giam giữ lâu dài, mất liên lạc hoàn toàn với gia đình, anh trở nên trầm cảm, ít nói dần dần im lặng hẳn trong cuộc sống hằng ngày. Tuy trên nét mặt vẫn còn vui vẻ với mọi người.
Người tù luôn lập đi lập lại một số chữ hay một câu, không ai hỏi cũng cứ nói, họ luôn nói giữa chỗ đông người, cũng như những lúc một mình: Ối trời ơi lâu quá không có thăm nuôi, mặc dù gia đình chỉ mới đến cách đó một vài tuần, ôi đói quá, ôi khổ quá... ôi trời ơi là trời... Mẹ ơi là Mẹ... Câu chuyện sau đã xảy ra với một tù nhân đáng thương trong lúc lâm bịnh nặng, án trên mười năm, tuổi bốn mươi, thường lập đi lập lại một số từ như: -Nghiệp báo, nghiệp báo... chết, chết, trời ơi là trời... Tù nhân nầy bị lao phổi và sau đó bịnh nặng rồi chết trong trại giam. Người ta được biết lúc mới vào tù anh rất khoẻ mạnh, khi ra lao động khổ sai, nơi đây có quá nhiều người mắc chứng lao phổi khiến anh sợ hãi và có làm đơn lên ban giám thị yêu cầu cách ly những tù nhân nầy ra một khu riêng biệt, các tù nhân phản ứng dữ dội, vì họ vốn như những con cừu luôn cần sự sưởi ấm cho nhau. Vì yêu cầu đó mà anh bị các tù nhân khác cô lập cho đến ngày cũng mắc chứng lao phổi, nằm bệnh xá lâu dài và chết trong trại giam. Các bạn tù đến thăm viếng, anh chết trên vũng máu do thổ huyết... Và những từ luôn trên miệng anh, mọi người như vẫn còn nghe rõ: nghiệp báo... nghiệp báo. Và sự thật có thông tin ngầm trong thành phần bị lao phổi ở trại giam nầy, nạn nhân đã nhiễm lao do ăn phải thức ăn có đờm và máu của người bệnh nặng do quá phẫn uất trước đề nghị cách ly mà khạc vào. Thiện Nam cũng như nhiều bạn tù khác từng nhiễm lao ở trại nầy, có lúc bị xếp thành đội lao riêng biệt, có khi phân tán về các đội và chàng nhìn kỹ vào người theo các nguồn tin thân cận đã gieo mầm bệnh đến nạn nhân: người tù nầy nhỏ con, khuôn mặt trông bề ngoài hiền và sinh hoạt hằng ngày rất có tinh thần đồng đội. Khi tù nhân bất hạnh qua đời và người tù gieo oan nghiệt cũng sắp chết, Thiện Nam và các bạn tù chỉ nghe rõ anh ta nói một câu: Hãy cho nó chết... Trong lòng Thiện Nam và nhiều người, quả là với loại người hiền như thế nầy chỉ có “kính nhi viễn chi”.   
Đáp lập lại, đối với mỗi câu hỏi khác nhau, người tù trả lời bằng một câu nhất định. Linh mục đặc biệt nầy, án tập trung lâu dài, gần sáu mươi tuổi, Người nguyên là Giám đốc Trung tâm Fatima Sài Gòn rồi bị bắt giam, thường trả lời những câu hỏi khi làm việc với cán bộ: -Mẹ sẽ thắng, Mẹ sẽ thắng... Ngay khi viết các bản kiểm điểm, thay vì đề tên nước, vị Linh mục nầy cũng chỉ ghi Mẹ sẽ thắng, Mẹ sẽ thắng.
Nhại lời khi hai người bệnh không trả lời mà chỉ lập lại câu hỏi. Các tù nhân loại nầy rất thích nghe người khác nói chuyện, thích đối thoại, nhưng mỗi khi ai đặt câu hỏi, họ không trả lời trực tiếp, song chỉ lập lại câu hỏi, có khi lập lại nhiều lần. Hoặc rất thích nói chuyện, thích đàm đạo về mọi chuyện, nhưng mỗi khi có ai đặt câu hỏi thì tỏ ra hiểu câu hỏi, rồi không trả lời mà chỉ lập lại câu hỏi kèm theo các câu nhấn mạnh ở đuôi: -Thế hả, thế à... Các tù nhân khác hay trêu họ là những kẻ ù tai và ngày càng điếc thật.
Cơn xung động lời nói, người tù lầm lì suốt ngày không nói, nhưng thỉnh thoảng lại có một cơn xung động lời nói: nói một hồi lâu những câu vô nghĩa, tục tằn. Thường gặp trong tâm thần phân liệt. Có tù nhân bình thường ít nói, lầm lì, thế nhưng khi có sự bốc đồng về chuyện gì thường nổi cơn chửi rủa các đối tượng mà họ căm thù một cách thậm tệ với những ngôn từ thật  thô tục, có khi chỉ là một tràng chửi thề. 
Rối loạn về kết âm và phát âm như nói khó, nói thì thào, nói lắp, nói giọng mũi, nói giả giọng địa phương. Một tù nhân án trên mười năm, tuổi bốn mươi, thích nói nhiều, nhưng phát âm rất khó, có khi nói lắp, có thể bị bẩm sinh từ nhỏ một phần, đến khi bị tra tấn theo lời tù nhân nầy thuật lại, anh bị đánh chấn thương nơi thanh quản bằng cú chặt karatê ngang cổ khi anh không chịu khai báo. Một trường hợp khác, vốn là một người quê ở đảo nên giọng nói rất khó nghe đối với người trên đất liền, và sau một thời gian ở tù, do ít giao tiếp cũng như sợ sơ suất trong lời nói sẽ bị chụp mũ, dần dần anh trở nên nói khó, âm thanh phát ra như thì thào không ai nghe rõ điều gì.
Rối loạn về ngữ pháp và lô gích của tư duy, có tù nhân khi diễn tả việc gì thường lộn cú pháp như: ăn cơm thì bảo cơm ăn; ăn thịt - thịt ăn; lao động - động lao; thăm nuôi - nuôi thăm... Tù nhân “Long bọ hung”, tuổi trên năm mươi, án chung thân, y nhìn mọi người như không ai còn gần gũi nữa, trở nên lạnh lùng với mọi người và nhiều khi vô cùng cộc cằn, thô lỗ với các bạn tù khác một cách hung dữ. Lúc đầu co rút vì sợ hãi về sau dần dần xa cách các tù nhân khác, rồi cộng tác đắc lực với cai tù đến độ các tù nhân đều gọi y là: Long bọ hung. Trong ánh mắt trắng dã của y không biết bao nhiêu người là nạn nhân trong sự vô cảm đến không còn cá tính của y từ sự rối loạn về cảm xúc. Song song với sự hành ác của mình y cũng tôn một Nhà sư làm sư phụ như để chứng tỏ với mọi người: ta cũng còn biết thế nào là thiện. Về sau không rõ sự cố diễn ra như thế nào, có tin là âm mưu trốn trại mà cả hai cùng vào nhà cùm tại Thung Lũng Tử Thần. Vị Đại Đức này có tên trong sự quý mến của các bạn tù là Thầy Ba, tức Thượng Tọa Thiện Minh sau này, song mỗi khi nghĩ đến người đệ tử bên cạnh này ai cũng ái ngại nếu không nói là sợ hãi trong các liên lụy.
Ngôn ngữ phân liệt, trong từng câu có thể dùng ngữ pháp, có ý nghĩa, nhưng giữa các câu không có liên hệ gì với nhau về ý nghĩa lô gích cả. Gặp trong tâm thần phân liệt. Ông “Thủ tướng” - chức vụ được đề cử của một Mặt trận, án hai mươi năm, tuổi bốn mươi, thường mở đầu câu chuyện với những câu nhập đề ai cũng có thể hiểu được, song đến nội dung không ai biết tù nhân nầy muốn nói gì, đến kết luận người ta có thể hiểu được như: Tụi nầy sẽ chết, ám chỉ cộng sản, chúng bá đạo độc ác... cơ trời báo cho biết chúng sẽ không tồn tại lâu dài. Quỷ vương xuất hiện sẽ có quân vương ra đời, nhưng Thượng đế không chết thì Quỷ vương cũng khó mà chết... Chư Thánh, Mẫu Thánh sẽ độ trì, hà bá sẽ lôi chúng, diêm vương đang chờ chúng.... Cộng sản sẽ sụp đổ, chế độ toàn trị sẽ sụp đổ... 
Ngôn ngữ không liên quan, tư duy người bệnh lộn xộn, họ nói ra những từ rời rạc không có mối liên hệ gì với nhau và không có ý nghĩa gì cả. Thường gặp trong trạng thái mê sảng và lú lẫn. Các Cụ tuổi ngoài bảy mươi, án cao, sau nhiều năm trong các trại lao động đều bắt đầu lú lẫn, nhiều lúc tới bữa ăn không nhớ rõ mình đã ăn rồi hay chưa, và luôn ngồi tính khoảng cách gia đình đến thăm gặp thường ba tháng một lần, nhưng phép tính trên bàn tay hình như với cụ nào cũng cứ lộn mãi, tuy nhiên trong cuộc sống hằng ngày quý cụ rất lạc quan và luôn vui vẻ. 
Sáng tạo ngôn ngữ, các tù nhân trong tình huống nầy đặt ra một ngôn ngữ lạ lùng, người khác không thể hiểu được, loại tiếng nầy có tính chất tự kỷ và không thông dụng, thường gặp trong tâm thần phân liệt. Có tù nhân hay dùng tiếng dân tộc pha lẫn tiếng Việt mà chỉ có vài người trong nhóm của họ mới hiểu được, như nhóm Siêu Thiên Tử tạo riêng một số từ mà không ai hiểu gì cả ngoài vài người trong nhóm với nhau.
Tư duy hai chiều, người bệnh còn tiếp nhận các ý nghĩ, những câu nói hoàn toàn trái ngược nhau, gặp trong tâm thần phân liệt. Họ hay hiểu ngược lại những gì mà người đối thoại nói, trong cuộc sống hằng ngày họ rất tốt với mọi người, nhưng do trải qua nhiều lần kỷ luật và kiên giam khiến hầu hết trở nên nghi ngờ mọi trường hợp xấu đều có thể xảy ra, nên luôn đặt ngược mọi vấn đề và có khi hiểu ngược lại mới yên tâm. Cụ Lê Văn Tấn, án tử hình được tha tội chết xuống còn hai mươi năm, tuổi ngoài bảy mươi, sau bản án tử hình với thời gian nằm kiên giam khá lâu, cụ trở nên nghi ngờ mọi thứ, ai nói gì cụ luôn đặt ngược lại vấn đề, mặc dù cụ rất thương và giúp đỡ những người đồng cảnh ngộ. Có khi lại hiểu khác ý chân thành của người khác khiến nhiều người bất bình nhưng thông cảm cho cụ.
Tư duy tự kỷ, người tù thu hẹp vào thế giới tự kỷ của mình, tách rời với thực tế, luôn luôn nói đến những vấn đề của thế giới bên trong kỳ lạ của mình. Gặp trong tâm thần phân liệt. Họ luôn nói về thế giới riêng của mình như những giấc mơ về những quần đảo thần tiên dù đang ở tù, hoặc giấc mơ về thế giới tuổi thơ. Họ luôn nói về tôn giáo, nói về Thượng đế trong thế giới suy niệm riêng của họ mà thật sự không ai hiểu nổi. 
Tư duy tượng trưng, một “đạo sĩ”, án trên mười lăm năm, tuổi ba mươi, rất ít nói, và chỉ nói về một thế giới đại đồng mà Việt Nam sẽ đóng vai trò chủ yếu trong thế giới nầy vì Việt Nam có con sông Cửu Long là nơi hội tụ của nhiều sông ngòi. Tù nhân nầy cũng nói về thuyết đại đồng và cho rằng Việt Nam là trung tâm của thế giới vì Việt Nam có chín con rồng hội tụ thành một là con sông Cửu Long.
Rối loạn nội dung tư duy qua định kiến, hoang tưởng và ám ảnh còn gọi là ý tưởng quá đáng. Đối với một sự không vừa lòng nhỏ nhặt như sai hẹn, góp ý không chính xác. Tù nhân mang định kiến nầy cho đó là có tính chất coi thường họ, người tù luôn luôn nhớ tới việc đó, tỏ ra bực tức, đau khổ, và tìm cách phản ứng trả thù. Người bệnh không thấy chỗ sai của định kiến nên không có sự đấu tranh phê phán lại, nhưng với thời gian gặp hoàn cảnh thuận lợi định kiến sẽ mờ nhạt dần và mất hẳn. Hầu hết các tù nhân đều mắc phải thứ định kiến nầy, họ luôn cho rằng: cộng sản không còn là con người, vì thực tế họ chứng kiến các sự ác do những người cộng sản làm, họ không tin con người lại có thể giết đồng loại như thế, bách hại nhau lại có thể xem đó là hạnh phúc. Nhưng dần dần các định kiến nầy cũng bớt đi khi có một số cán bộ cộng sản cũng biết làm hoà với tù nhân để xin ăn từ các tù nhân có thăm nuôi thường xuyên. Các cán bộ cộng sản cũng vậy, họ luôn có định kiến với các tù nhân là tay sai của đế quốc, là phản quốc... Nhưng dần dần sống gần các tù nhân họ được cảm hoá vì thật ra những con người gọi là kẻ thù của giai cấp hôm nay, họ là những con người không chạy theo đế quốc mà ở tù vì đấu tranh cho quyền của con người, trong đó có chính họ. Các tù nhân nầy ngoài những người vì sợ hãi mà đút lót như mỗi sáng phải lo cho quản giáo một gói mì ăn liền để được xếp vào vị trí nấu bếp khỏi phải lao động khổ sai, còn hầu hết các tù nhân đều cho trong cách thế của con người với con người như một Tu sĩ Dòng Đồng công mỗi khi có cán bộ đau ốm, ông cho thuốc gấp đôi các tù nhân khác và thường là thuốc quí hơn nữa, khiến các cán bộ cai tù mỗi khi đau ốm đều chạy đến Thầy. Nên dần dần các định kiến nầy cũng đổi thay cả về hai phía, nhất là càng đi về phía các trại phía Nam .
Hoang tưởng là những ý tưởng phán đoán sai lầm, không phù hợp với thực tế khách quan, do bệnh tâm thần gây ra, nhưng người bệnh cho là hoàn toàn chính xác, không thể giải thích phê phán được. Hoang tưởng chỉ mờ nhạt hay mất đi khi bệnh thuyên giảm và hồi phục. Tù nhân hay nói say sưa về một thế giới không hận thù, các tôn giáo hoà đồng trong Mặt trận Liên tôn... con người sống chung với nhau trên hành tinh nầy như sống dưới một mái nhà chung. 
Hoang tưởng thứ phát xuất hiện trên cơ sở các rối loạn tri giác, cảm xúc, ý thức. Người tù trong tình huống nầy nhìn thấy những sự vật, những người chung quanh có một cái gì đặc biệt khác thường có liên quan đến mình. Họ giải thích cái đặc biệt, cái khác thường ấy theo lối suy đoán riêng của mình.
Một số tù nhân khi thấy cổng trại có lúc bị xiêu vẹo, thấy cờ bị rách thì nghĩ rằng chế độ cộng sản sắp tàn, thấy cán bộ cộng sản người nào hầu như chỉ biết dựa vào nhà nước, mà dựa vào nhà nước thì không no đủ, nên phải nhờ vả xin từng chút một của tù vốn đã túng thiếu như vòi từng tí bột ngọt, bột nem, ruốc... họ lại liên tưởng đến người thân ở ngoài xã hội có đi ăn mày như thế không. 
Hoang tưởng suy đoán, nhiều sự kiện được họ giải thích một cách phiến diện và lệch lạc. Tất cả những gì trái với hoang tưởng đều bị bác bỏ. Hoang tưởng ngày càng hệ thống hoá và bền vững. Khi mới có hoang tưởng người bệnh còn giữ được khả năng lao động một thời gian dài và ngoài các hành vi bị hoang tưởng chi phối, người bệnh có thể sinh hoạt như người bình thường, làm cho người chung quanh phân vân không biết người ấy có bệnh hay không. Hoang tưởng suy đoán làm tan rã nhân cách người bệnh một cách sâu sắc. Đây là thứ hoang tưởng mà các lãnh tụ trong tù vấp phải nhiều nhất, như cộng sản Đông Âu sụp đổ họ suy luận lô gích chủ quan như đó là do cơ trời đã định rằng tới thời điểm đó thì cộng sản phải như thế... Khi được biết qua tin đồn từ ngoài xã hội sẽ có Cao uỷ Nhân quyền đến viếng trại giam thì lãnh tụ nào cũng hớn hở thậm chí còn chuẩn bị ra tuyên bố.v.v. Nhưng khi có Cao uỷ đến thì nhiều người bị mang đi cất giấu thật khổ sở, đến khi Cao uỷ đi thì càng cùng cực hơn nữa như bị đoạ đày đến nơi khó khăn gấp bội, trong khi các tù nhân loại nầy thường suy đoán là sắp được Cao uỷ rước đi mà nếu ai có ý nghĩ ngược lại họ sẽ cho có khi là đồ phản bội anh em..
Hoang tưởng cảm thụ, nó lệch lạc và chỉ là những ý tưởng rời rạc không liên tục, có tính chất từng mảnh. Người bệnh không tham gia tích cực vào nội dung hoang tưởng như trong hoang tưởng suy đoán. Hoang tưởng cảm thụ ngay từ đầu xuất hiện đồng thời với các triệu chứng tâm thần khác như rối loạn cảm xúc lo âu càng tăng, rối loạn tri giác kích động... Nội dung hoang tưởng có thể gắn với các sự kiện thực tế, hoặc mang tính chất hoang tưởng, nhân cách người bệnh không bị biến đổi nhiều. Trong một thời gian tại trại Thung lũng tử thần, các tù nhân luôn bị ám ảnh bởi chuyện đi Mỹ, ngay chiều về sau giờ lao động, các tù nhân đều chuẩn bị hành lý gọn để chờ người Mỹ đến rước, nên vào ban đêm khi nghe có tiếng rục rịch của động cơ máy cày, thậm chí của xe bò quanh trại giam ai cũng thức dậy uống nước trà và chờ đợi. Nhưng sáng hôm sau thì người nào cũng ngủ gục vì mất ngủ và rồi kiệt sức trên cánh đồng. Đây quả là hội chứng Mỹ quốc trong nhà tù cộng sản.
Hoang tưởng liên hệ, người tù nghĩ rằng mọi việc xung quanh đều có liên hệ mật thiết với mình. Như khi thấy hai người nói chuyện với nhau thì cho rằng họ bàn tán về mình, nghĩ rằng người ta nhìn mình một cách đặc biệt, xem thường mình. Những thái độ lời nói của những người chung quanh, người bệnh suy diễn cho là ám chỉ mình. Hình ảnh một tù nhân luôn bị ám ảnh, án hai mươi năm, tuổi bốn mươi, thường mỗi khi ai quan tâm đến, anh cho rằng họ đang theo dõi theo nguyên văn: Nhìn ánh mắt là tôi biết ngay mà, hắn đang theo dõi để báo cáo tôi. Khi diễn tả như thế anh nhăn nhó khuôn mặt vô cùng. Nhưng thật sự các bạn tù chung quanh chẳng có ai theo dõi cả, một đôi khi có người muốn thăm hỏi anh thế thôi. Một số tù nhân khác cũng đầy sự hoài nghi không kém, thật sự có lẽ do hậu quả của việc truy lùng, khủng bố liên tục trong nhà tù. Nguyên văn lời lẽ thường do suy đoán liên hệ: Tôi thấy hắn nhìn trong ánh mắt là sự theo dõi, những việc chúng làm không thể qua mặt tôi được. Nhưng sự thật nào có ai theo dõi, mọi cái nhìn của mọi người vẫn bình thường như mọi ngày.
Hoang tưởng bị hại, đây là tâm trạng chung của các tù nhân bị giam giữ lâu ngày, các tù nhân thường nghi ngờ rồi khẳng định một người nào đó, một nhóm nào đó theo dõi và tìm cách ám hại mình, như bỏ thuốc độc vào thức ăn, nước uống, tổ chức giết hại, bắt bớ mình. Đối tượng mà người bệnh nghĩ rằng ám hại họ thường là những người thân cận như cha mẹ, vợ con, bạn đồng nghiệp. Có tù nhân rất lạc quan vui vẻ, nhưng mỗi khi thấy bóng dáng của cán bộ cai tù thì ngay lập tức báo động cho các tù nhân khác biết trong cảnh giác cao độ đầy lo âu: -Bọn ám hại chúng ta đang đến gần... Khủng bố, khủng bố... Và mỗi ngày không biết có bao nhiêu lần báo động như thế.
Hoang tưởng bị chi phối, người tù cho rằng có người nào đó dùng quyền thế, phù phép hay một phương tiện nào đó để chi phối toàn bộ tư tưởng, hành vi, cảm xúc của mình. Ý tưởng bị chi phối thường là thành phần chủ yếu của ảo giác giả và hội chứng tâm thần tự động. Trong trường hợp nầy tù nhân tâm sự họ luôn bị một người nào đó dùng phù phép ám hại, vì trước đây họ đã từng bị ám hại như thế. Có tù nhân  mang ý nghĩ như dòng điện luôn chạy qua người khiến họ khó chịu trong cơ thể.
Hoang tưởng ghen tuông, hầu hết các tù nhân khi thấy có người bạn tù nào bị gọi làm việc hoặc làm việc định kỳ, họ đều cảnh giác về người đó, có khi họ nghi oan về người đó vì phần lớn đều dựa vào những bằng chứng không rõ rệt để cách ly tù nhân đó vì đã làm việc vào ngày đó và có những vụ kỷ luật xảy ra.v.v. Nhưng thật sự mạng lưới an ninh của cai tù được sắp đặt đã báo cáo cả rồi, và nạn nhân bị làm việc hôm đó đôi khi lại là một tù nhân khả kính nào đó mà cán bộ cai tù muốn chia rẽ họ với nhau. 
Hoang tưởng tự buộc tội thường đưa đến ý tưởng và hành động tự sát. Tù nhân khác người Trần Đình Nguyên, án hai mươi năm, tuổi năm mươi, có lần quì xuống và van xin cán bộ cai tù muốn sai bảo chuyện gì thì y cũng làm, vì theo lời y tự đấm ngực là kẻ tội lỗi, nguyên văn: -Xin cho tôi được ăn phân cán bộ cũng xin kham, hằng ngày y vẫn luôn quì lụy mặc dù đã lớn tuổi. Song niềm hãnh diện và lúc nào cũng lấy làm tự hào trong con người nầy - đó là đồng hương với lãnh tụ tối cao và giọng nói địa phương của y chứng minh điều ấy là đúng trong số chín mươi chín cái láo lếu của con người nầy. Những ai trải qua trại Thung Lũng Tử Thần cũng như trại Chí Hoà vào cùng thời điểm với y, có lẽ sẽ không bao giờ quên nhân vật nầy, nên ghi lại nguyên văn tên họ là vậy. Thiện Nam có lúc bị phân bổ về đội do y làm đội trưởng và chàng đã chứng kiến những gì xảy ra về cái ác trong việc hành hạ các tù nhân: đó là sự thật. Và điều nầy vẫn có sự lập lại: y luôn nói mình là người có tôn giáo nhưng theo các tù nhân y đã tố cáo người cha đỡ đầu mình và về sau người cha bất hạnh nầy đã biến mất khỏi trại giam Chí hòa mà không biết về đâu.
Hoang tưởng nghi bệnh, người tù tự cho mình có bệnh giang mai, ung thư, bệnh lao và đưa ra một loại bằng chứng về các bệnh nầy. Họ cho là bị lây bệnh trong hoàn cảnh nào đó, liên tục đi khám bệnh, họ không tin vào sự khám xét đó. Hầu hết các tù nhân đều mắc chứng nầy, vì môi trường thiếu vệ sinh của trại giam, cơ thể không đủ dinh dưỡng ngày càng còi hẳn, khiến các tù nhân luôn ưu tư về mọi thứ bệnh mà thật sự người nào cũng có bệnh, từ đau bụng tiêu chảy - chứng nầy rất phổ biến và thường xuyên trong tù, bệnh tim mạch đến lao phổi.v.v. Thật vậy các tù nhân đều mắc phải ít ra một trong các chứng đó. 
Hoang tưởng tự cao, người bệnh cho mình thông minh, tài giỏi, xuất chúng, việc gì cũng làm được, sức lực mạnh mẽ không ai bằng... Có địa vị cao, quyền lực lớn, vàng bạc châu báu hàng kho. Các trưởng trại đều hoang tưởng rằng Đảng là Ta, Ta là Đảng mà Đảng đã thắng được đế quốc Mỹ thì không chuyện gì trên thế gian nầy mà không làm được. Một số các tù nhân như nhóm Siêu Thiên Tử nghĩ rằng Ta là con Trời, Ta  thông minh nhất, tài giỏi nhất, cái gì cũng nhất... và việc điều khiển cả thế giới nầy chỉ là thời cơ.
Hoang tưởng phát minh, người bệnh tuy không học tập về y khoa nhưng cho rằng mình đã phát minh ra những phương pháp điều trị các bệnh nan y có kết quả và viết tài liệu phổ biến các phương pháp đó... Người bệnh tự cho mình nghĩ ra những phát minh mới về vật lý, hoá học độc đáo kỳ lạ, những phương án cải tạo và xây dựng xã hội phi thực tế và đem trình bày với mọi người, tìm cách thuyết phục họ thừa nhận. Trong các trại lao cải luôn xuất hiện các thầy thuốc nam, họ đều là những “nhà phát minh” ra các công dụng của cây cỏ, dù hiệu quả của các dược liệu nầy không xa lạ với các thầy thuốc Đông y truyền thống, tuy vậy nó lại được cán bộ cộng sản khuếch đại rất nhiều để chữa trị bệnh tâm lý của tù nhân vì môi trường tù rất thiếu thốn mọi thứ khiến tù nhân nào cũng bị ám ảnh đến bịnh hoạn của chính mình. Quả thật những “nhà phát minh” thì trốn tránh được không phải lao động vất vả như các tù nhân khác, còn các cai tù thì chữa trị được nhiều thứ bệnh cho tù nhân đến gần cái chết hơn mà không bị tai tiếng, cũng như không mất một xu nào cả.
Hoang tưởng được yêu, người bệnh cho rằng có nhiều người yêu mình say mê đắm đuối, tìm cách gặp mình để biểu lộ những say mê tha thiết đó nhưng họ không yêu lại. Chứng hoang tưởng nầy các lãnh tụ cũng như các chức sắc tôn giáo trong tù đều mắc phải, họ luôn nghĩ có nhiều người ái mộ, tôn sùng mình.v.v. và Ta là “cái rốn trong thiên hạ” nên vì cái chung sẽ không thiên vị ai; còn về phía những người đến với họ, sự thật phần lớn các chức sắc thường thăm nuôi đầy đủ hơn mọi người, nên họ đến sự thường không vì các giá trị tinh thần.
 Hoang tưởng nhận nhầm, người bệnh khi bố mẹ đến thăm thì không thừa nhận mà cho rằng những người đó giả dạng bố mẹ mình. Ngược lại khi người lạ xuất hiện thì lại cho là bố mẹ mình. Đôi khi họ nhận những người bệnh khác là những người thân thích. Loại hoang tưởng nầy thường mắc phải đối với các tù nhân khi mới vào trại giam, vì từ môi trường tự do ngoài xã hội sang môi trường mất tự do, họ trở nên sợ hãi vô cùng khiến sự xác định nơi mỗi cá nhân trở nên hoài nghi về mọi thứ, nhất là trong lúc điều tra bị trấn áp khủng bố họ lại càng đa nghi về mọi chuyện, như quà từ gia đình gửi đến thường chỉ qua song cửa sắt và không được gặp trực tiếp người thân, nên họ nghi ngờ có thể là thuốc độc để sát hại họ, nên có người không chịu nhận quà vì cho đó là của cai tù bỏ thuốc độc để sát hại mình.v.v. Có khi cha mẹ đến thăm họ cho là giả, mới nghe tên chưa được gặp họ đã từ chối vì cho là sự dối trá của cơ quan điều tra...Một tù nhân trẻ án hai mươi năm, tuổi chưa đến ba mươi, sau một thời gian ở tù, đã từ chối gặp gia đình khi có người thân đến thăm, anh nói thật tình trong sự đáng thương: Tôi không còn người thân nào cả, đừng lừa dối tôi... Tôi không còn người thân nào cả. Thật sự người tù bất hạnh nầy đã trở nên bất bình thường và sau đó đã mang chứng tâm thần rất nặng trong tù.
Hoang tưởng gán ý, người tù tri giác các hiện tượng, sự việc xung quanh như là dấu hiệu tượng trưng, có ý nghĩa riêng biệt đối với họ. Trên đường đi gặp một cái hố thì họ cho rằng hố là tượng trưng cho cái huyệt chôn người và báo hiệu rằng họ sẽ chết trong một ngày gần đây. Như trại Thung Lũng Tử Thần có giai đoạn ngày nào cũng với vài người chết, phần lớn là tù hình sự, nên thấy cây ngã thì bảo thế nào cũng có tù bị đánh vì thật sự ngày nào lúc nào các tù nhân cũng bị đe dọa cùm kẹp...Có một số tù nhân sau thời gian dài ở tù vẫn còn nhớ đến chuyện đánh số đề từ ngoài xã hội như thấy con số 3,4,5... đều nghĩ đến những con thú có số liên hệ, và thật sự khi các tù nhân được tự giác, những người nầy đều tham gia vào trò chơi cờ bạc, thậm chí lúc còn trong trại giam vẫn chơi qua trung gian các tù tự giác hoặc cán bộ cai tù mua số hộ.
Hoang tưởng đóng kịch, cùng một người nhưng khi đóng vai nầy vai khác, người nầy thay đổi vị trí cho người kia và hoàn cảnh chung quanh cũng biến đổi không ngừng. “Ra khỏi nhà là phải mang mặt nạ”, thế nhưng với các tù nhân thời không chỉ có một mà nhiều mặt nạ, ngay với các bậc chân tu dù không nói láo được thì giữ sự yên lặng, hà tất không thể nói thật và đó là sự khôn ngoan. Chính sự đóng kịch giữa cai tù và tù nhân cũng như giữa tù nhân với cai tù, nó như định luật muôn thuở. Người ta đặt sự tồn tại của con người trên sự tin cậy lẫn nhau, nhưng nơi đây con người tồn tại trên sự không tin tưởng vào nhau. Một Linh mục bị điên thật và ai cũng nhận ra như thế, các cán bộ tù cũng nhận ra điều nầy nhưng bảo tin vị Linh mục nầy bị điên thật để đặt bút ký cho tại ngoại chữa trị thì không giám thị nào chịu làm và cũng không cho đi bệnh viện để khám nghiệm. Nguyên nhân sâu xa vì các cai tù vẫn chủ quan nghĩ rằng căn bệnh của tù nhân nếu có chỉ là một sự hoang tưởng đóng kịch.
Hoang tưởng biến hình bản thân, họ cảm thấy có thể mình đã biến hình thành hình chim, hình thú vật hay cây cỏ. Hoang tưởng nầy thường kèm theo với loạn cảm giác bản thể, ảo giác giả và liên quan với hoang tưởng bị chi phối. Một giáo viên, án hai mươi năm, tuổi bốn mươi, sau giờ lao động thường anh ta ngồi một chỗ nhìn trời, các bạn tù hỏi anh về những lúc ấy anh cho biết: những lúc ấy tôi biến thành chim bay đi khắp muôn phương cùng các tiên thánh.
Hoang tưởng kỳ quái cấp, người bệnh như đang sống trong một cảnh kỳ dị lạ lùng trong một thời gian ngắn. Họ như đang đứng giữa cuộc đấu tranh của hai phe, hai lực lượng. Thắng lợi của bên này hay bên kia phụ thuộc vào hành vi tác phong của họ. Các sự kiện đều có hai ý nghĩa, người đàn ông đang nói chuyện với họ vừa là bác sĩ vừa là gián điệp, những người chung quanh vừa tham gia vào trận xung đột, vừa là nạn nhân của trận xung đột đó, nơi họ đang đứng vừa là trại giam vừa là chiến trường. Tâm trạng họ vừa sợ hãi vừa thích thú. Các tù nhân khi đi khám bệnh tại bệnh xá trại giam đều có tâm trạng chung: họ vừa nhìn các thầy thuốc vừa là bác sĩ đang chữa trị cho họ, song cũng là những người thay cán bộ cai tù để theo dõi họ, thật vậy có rất ít thầy thuốc bảo vệ quyền lợi cho tù nhân trong tù, vì nếu họ đứng ra bênh vực các bạn tù thì sẽ không bao giờ được làm ở bộ phận y tế, vai trò chính của các bác sĩ trong tù là tìm ra bệnh giả sẽ có công trạng hơn là công việc chữa trị. Hình ảnh của Bác sĩ Nhiếp, BS Châu luôn trong tâm trí của các tù nhân đã qua trại Thung Lũng Tử Thần, vì hầu như công việc chính của họ không phải để cứu giúp con người, nhưng để tìm ra những virus chống lại chế độ còn tồn tại nơi mỗi tù nhân rồi tiêu diệt họ, và điều tồi tệ cũng không phải vì lý tưởng nào cả mà vì để họ được sống trên sinh mạng cùng cái chết của tha nhân. Trong khi đó có vị Bác sĩ nhờ sự im lặng đã cứu được chính mình và nhiều người khác - Bs Nguyễn Văn Lịch, án hai mươi năm. Một số trường hợp không thể đi bệnh viện được như ruột thừa, ông giăng mùng mổ ngay tại trại giam; say nấm mà nếu chở đi sẽ chết dọc đường, Bs đều xin giữ lại và cứu sống, hằng đêm nơi nào có tiếng kêu cấp cứu ông đến ngay. Ngược lại có vị Bác sĩ án chung thân nói nhiều, nói nhỏ, lầm bầm suốt ngày song không mích lòng ai cả. Các cai tù không còn để ý vì cho rằng ở tù quá lâu ông bị tâm thần, nhờ vậy mà ông đã cứu chữa cho nhiều người. Ngoài ra còn có Bác sĩ  bị cùm kiên giam thường xuyên, có cả phiên toà mở ra tại trại giam để tăng án cho ông chỉ vì Bác sĩ đã giúp nhiều người muốn đào thoát. Tất cả những ai đã từng qua trại Thung Lũng Tử Thần, hầu như đều mang ơn các vị Bác sĩ khả kính này. Những con người cũng biết sợ hãi như mọi người, nhưng nơi họ còn có cái tâm và sự kiềm chế.
Hoang tưởng kỳ quái kéo dài có nội dung khuếch đại với tính hưng cảm. Người bệnh cho mình nắm quyền cai quản thế giới, lãnh đạo toàn thể địa cầu, xây dựng hạnh phúc cho tất cả mọi người, thông minh rất mực, sáng tạo các qui luật tự nhiên và các tác phẩm khoa học nghệ thuật lớn. Họ cho rằng tim, phổi mình bị hư hỏng cả, ruột gan thối nát, các phủ tạng biến mất. Người bệnh cho rằng nhà cửa, thành phố bị sụp đổ tan hoang, ngoại cảnh điêu tàn, tất cả những người thân đều chết và họ đau khổ triền miên. Trong sinh hoạt hằng ngày có dạng tù nhân thuộc loại nầy, sự hưng phấn của họ liên tục hầu như không có sự kiềm chế như khi có một nguyên nhân nào dù rất nhỏ họ cũng cười thật lớn vang cả phòng giam, sự hoang tưởng kỳ quái nầy thường kéo dài với mỗi tù nhân trong trạng huống này có khi kéo dài rất lâu, nhiều khi các bạn tù khác trong sự thân mật nhắc khéo họ về sự hoang tưởng đang hiện hữu, nhưng dường như nó trở thành cố tật với các tù nhân sau một thời gian dài bị cách ly khỏi xã hội. Họ luôn than vãn trầm buồn và cho rằng người thân đã chết hết, mặc dù có thể vẫn còn nhưng do mất liên lạc, mọi quan hệ với người thân xem như đã hỏng hết... và chính họ đôi khi than phiền cơ thể rã rời do gan tim cật đã bị hư hỏng... Nhưng thật sự chỉ là hoang tưởng, tất cả vẫn còn, tất nhiên không còn tốt trong một môi trường quá khắc nghiệt.
Ám ảnh trừu tượng không kèm theo nội dung làm cho người bệnh lo sợ. Đó là loại suy nghĩ vẫn vơ, ám ảnh tính toán, ám ảnh suy luận, ám ảnh nhớ lại. Các tù nhân thường có những giấc mơ rồi la lớn vào ban đêm, họ nhớ lại những sự tra tấn dã man mà họ phải chịu nhục hình trong thời gian hỏi cung, hoặc những trường hợp còn sống sót sau khi trốn trại. Họ nhớ lại những nỗi kinh hoàng những lúc bị bỏ đói phải ăn cả chăn màn, và điều kiện vệ sinh khi phải vừa ăn vừa đi cầu trong một cái bát. Tù nhân trẻ, án trên mưòi lăm năm, tuổi ba mươi, trốn trại bị bắt lại bị đánh đến gần chết rồi bị mang ra phơi nắng trước cổng trại giam để mỗi cán bộ khi đi ngang qua mà tỏ lập trường giai cấp, mỗi người cứ đấm thoi vào tù nhân đang bị hấp hối, về sau khi hết thời gian bị kỷ luật và may mắn sống sót trở về phòng giam, đêm nào anh cũng thường có những giấc mơ kinh hoàng.
Ám ảnh tính toán, người tù luôn luôn bận tâm đến tất cả những bậc thang, những cửa sổ của mỗi nhà, những cột điện, những chữ cái trên các tấm biển. Tâm trạng nầy thường hay gặp đối với các tù nhân đang bị giam giữ nơi nhà kỷ luật kiên giam, suốt ngày nằm đếm những con thằn lằn chạy qua lại trên trần nhà, đếm chung quanh chỗ nằm của mình có bao nhiêu viên gạch, có bao nhiêu vết máu do muỗi đốt còn dính lại trên tường, cùng bao nhiêu chữ ký của những người đã từng qua nơi họ đang nằm. Có tù nhân thường xuyên lẩm nhẩm và đếm đi bao nhiêu bước từ cổng trại đến hiện trường lao động, quanh trại có bao nhiêu cây dừa, bao nhiêu hàng rào kẽm gai.v.v. Họ thường nói làm như thế để bộ não của mình nó làm việc, nếu không sẽ bị lú lẫn.
Ám ảnh suy luận, các tù nhân đều có suy nghĩ trong cảnh đời lao lý đầy nhục hình: Tại sao người Mỹ lại bỏ chúng ta, do các công dân Hoa kỳ không còn nhẫn nại khiến Quốc Hội Hoa kỳ đi đến quyết định không giúp miền Nam nữa, hay đã đến lúc vào thời điểm đó người Mỹ đã đạt được mục tiêu ở nơi nào đó như Trung quốc, hay chính chúng ta vì quá tham nhũng thối nát trong vấn đề viện trợ khiến người Mỹ nản lòng, thế rồi sẽ có nước nào là Đồng minh của Mỹ cũng có lúc bị bỏ rơi như những người Việt Nam Tự do hay không... Họ bàn luận về chuyện nầy trong suy luận như: Người Mỹ sẽ trở lại nhưng trong cách khác, Họ không thua cuộc, chỉ có chúng ta mới bị hoang tưởng về điều đó, những người miền Nam mới là người thua cuộc vì sự phá hoại cho mục rữa từ bên trong của cơ chế, và miền Bắc mới càng thua đậm, họ đã và sẽ không thắng được chính mình từ sự tự cao, tự đại một cách hoang tưởng của những con người với những tình huống tha hoá khác nhau rồi cùng vào Lương Sơn Bạc: số người tốt không đủ để cầm cương với những con ngựa bất kham vốn được chiêu dụ từ những thành phần có bản chất hình sự rất phù hợp cho việc đánh cướp chớp nhoáng của du kích, nó lại càng thích hợp hơn khi lao mình vào đấu tranh giai cấp không khoan nhượng, không tình người... Khi hoà bình lập lại, vốn ngựa quen đường cũ: từ thượng tầng đến hạ tầng đều là cách hành xử ở Lương Sơn Bạc, những con người quen cướp giựt nay nắm chính quyền lại có cơ hội tham ô nhũng lạm hợp pháp... Nên xét về đại thể dân tộc Việt Nam đã và sẽ đánh mất nhiều cơ hội nếu không nhận ra và kịp thời một sự khởi đầu mới trong bối cảnh toàn cầu hoá trên nền tảng không phải kẻ thắng người thua mà tất cả sẽ cùng thắng trong sự tất cả đã cùng thua.
Ám ảnh nhớ lại, người tù luôn luôn phải nhớ trái với ý muốn của mình như tên họ, quê quán, tuổi của nhiều người, cũng như những thuật ngữ khác nhau. Tù nhân cao tuổi, án trên mười lăm năm, ngoài bảy mươi, cụ thường xuyên đọc lại tên, họ của mình, bao nhiêu tuổi, tên các con, tên vợ là gì... vì theo cụ phải làm thường xuyên như thế để khỏi bị mất trí nhớ. Một đôi khi có ai gọi, vì chưa thích nghi kịp lại trả lời ngay chính những điều đang nghĩ. Các tù nhân có tôn giáo thì thường lần hạt vì đó là cách vừa cầu nguyện vừa khiến trí óc mình làm việc, ngoài ra có người còn tin rằng mỗi bài kinh là một phát đạn bắn vào kẻ vô thần.


XXV
RỐI LOẠN TÂM THẤN
 
Ám ảnh cảm thụ là loại ám ảnh cảm xúc mà nội dung làm cho người bệnh lo sợ, buồn rầu, đau khổ. Các tù nhân sau một thời gian cải tạo bị mắc chứng lao phổi nặng, thường trầm buồn, ít nói, lo sợ nhiều về cái chết sẽ xảy ra đối với họ ngay trong trại giam không kịp về với gia đình. Họ vui vẻ khi gặp anh em, thích tâm sự nhưng chỉ nói về nỗi buồn cùng sự đau khổ của mình khi phải xa cách gia đình quá lâu. Có người phát bệnh với một ung nhọt nhỏ nhưng không được điều trị thích đáng nên nhiễm trùng và chết. Nhiều tù nhân thuộc nhóm nầy.
Có rất nhiều loại ám ảnh sợ, mặc dù người bệnh biết tính chất vô lý và tìm cách khắc phục, nhưng ám ảnh nầy vẫn trở đi trở lại. Sợ khám xét cá nhân, sợ khám xét chung, sợ chuyển trại, sợ chuyển phòng, sợ bị cúp thăm nuôi, sợ không được nhận thư và gửi thư, sợ bị kêu làm việc với cán bộ an ninh, sợ kỷ luật, kiên giam... đủ mọi nỗi sợ vì các tù nhân bị khủng bố liên tục cho đến chỗ chết, và cái xác chết cũng trở thành thứ phương tiện để dùng làm sự trấn áp, răn đe những tù nhân còn sống như với các tù nhân trốn trại bị bắn chết thường được chôn rất cạn, để mùi hôi thối bốc lên hầu răn đe những tù nhân còn lại mỗi khi đi ngang qua.
     Chung quanh các trại giam thuộc miền rừng núi có nhiều mương rẫy, đất đồi được khai hoang và trồng trọt, ở những nơi đó đều có dựng chòi và các tù nhân dù án cao nhưng đã ở lâu năm, nhất là tuổi cao được bố trí đến ở các nơi đó để canh thú rừng vào ban đêm, và thường chỉ sau một thời gian ngắn những tù nhân nầy bị sốt cao, họ sẽ được trở lại trại giam qua sự xác nhận của y tế, song người nào khi trở về cũng trong bệnh hoạn cùng nỗi ám ảnh về cái khoảng rộng mênh mông ở thế giới bên ngoài. Đặc biệt phần lớn các trại giam, nếu muốn được sắp xếp vào vị trí giữ chòi, hà tất phải đút lót cho cán bộ cộng sản rất nhiều.
Ám ảnh sợ chiều cao, hầu hết các nhân vật có tầm cỡ khi vào tù đều mắc chứng nầy, chiều cao ở đây là những ảnh hưởng vốn có từ ngoài xã hội, thật vậy họ luôn bị theo dõi rình rập của cai tù và có thể bị đưa vào kiên giam bất cứ lúc nào. Vì sinh mệnh của họ bị đe doạ thường xuyên nên các tù nhân luôn tự an ủi bằng câu: Trời kêu ai nấy dạ. Một nhà giáo, tuổi năm mươi, nguyên là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm trước đây, ánh mắt ông như luôn đăm chiêu trầm lắng, không một động tác nào của ông mà không bị theo dõi, may mắn cùng sự thận trọng đã cứu ông. Một người bạn cũng dạy đại học, hình như cùng tổ chức với ông, đã bị kiên giam đến chết, và tuổi cũng chỉ khoảng năm mươi; một Giáo sư khác đã không khuất phục trước kẻ thù, không van xin trong cơn đau loét bao tử đã cắn răng chịu đựng mà chết ngay tại phòng giam, vị giáo sư nầy án chung thân. Quả thật Thầy Hiệu trưởng đã đóng vai thật khôn ngoan trong nỗi ám ảnh về sự ảnh hưởng vốn có của mình từ ngoài xã hội. Ông đã chết trước khi bị giết chết và may mắn còn sống sót. Tất cả Họ trong phần lý lịch về mục tôn giáo có ghi: Cao Đài.
Ám ảnh sợ chỗ đóng kín, trong cuộc hành trình của những ngày lao cải, thường ai cũng trải qua những ngày bị giam kín cách ly trong phòng tối để khai cung, căn phòng cacho nhỏ và thật nhỏ ấy, nó giống như một cái huyệt chôn người sống, bên ngoài với nhiều lớp tường bao bọc, không có ánh sáng, các tù nhân đưa bàn tay mình lên song không thấy gì cả, hằng ngày nhận được hai cục cơm trưa và tối vắt lại bằng quả trứng vịt nhưng không biết nó có màu gì, nhiệt độ ban ngày không dưới bốn mươi độ C... Nên những ai khi rời khỏi nơi nhà kỷ lụât nầy đều mang nỗi ám ảnh sợ cái không gian bé nhỏ giết người đó mà không biết những người đấu tranh cho Hoà Bình Xanh có bao giờ đã từng quan tâm đến. Một tù nhân tuổi ba mươi bị điên trong tù, khi lên cơn anh bị kéo lê lết vòng quanh trại giam để nhốt vào nhà kỷ luật, trên đường bị lôi đi dù trong cơn điên anh vẫn còn bị ám ảnh về cái khoảng không gian kinh hoàng đó: -Xin đừng mang tôi vào nơi ấy... Cái lò hoả thiêu... nóng, nóng lắm. Hãy giết tôi đi.. Đừng mang tôi vào chỗ kín đó.
Ám ảnh sợ người, đây là tâm trạng chung của các tù nhân khi mới bị bắt từ ngoài xã hội và được đưa vào phòng giam tập thể, mỗi phòng không đầy năm mươi mét vuông nhưng chứa đến cả trăm con người, căn phòng chừng một trăm mét vuông thì chứa trên hai trăm người... Điều thứ nhất mà ai cũng nhận ra sự khác thường là tất cả đều ở truồng vì nhiệt độ không dưới bốn mươi lăm độ C. Mắt người nào cũng đỏ hoe, mồ hôi thì chảy như tắm, sự gây gổ, đánh cãi chửi nhau xảy ra liên tục trong phòng do môi trường quá nóng khiến tính khí con người trở nên bất thường. Các tù nhân khi rời khỏi loại phòng giam tập thể nầy sẽ luôn mang theo nỗi ám ảnh sợ người như mùi nồng nặc của con người tiết ra, và trong căn phòng cả trăm con người ấy chỉ có một nhà cầu, những kẻ bị bệnh lậu, giang mai từ ngoài xã hội dù được dồn lại một góc nhưng mủ của bọn chúng chảy ra bốc lên tanh hôi khiến ai đến gần cũng muốn ói. Cao điểm của các loại phòng nầy là vào những năm 1977,1978,1979... cùng những năm 1980, khi phong trào bỏ nước ra đi lên cao điểm và nhiều người bị bắt lại. Một tù nhân lao cải ở trại Thung Lũng Tử Thần, từng bị vào Nhà Đỏ, có lần bị xuất huyết đường ruột suýt chết... Sau đây là suy nghĩ của riêng ông và cũng là của rất nhiều người khi qua trại này: Bọn chúng còn quá trẻ tuổi chưa đến ba mươi, toàn là từ miền Bắc mới đưa vào, nhưng không biết ác sao mà ác thế, chưa bao giờ thấy chúng tha cho một ai dù là chỉ vi phạm nhỏ, chuyên ghép tội và bắt các tù nhân nhận tội, nếu không chúng dùng roi điện quất cho đến đầy thương tích mới thôi. Chúng không có nụ cười, con ngươi của chúng như chỉ có mỗi tròng trắng mà thôi...trong sự ám ảnh nên ông có cái nhìn như thế, quả thật vì bọn cán bộ trẻ nầy hay trừng con mắt để làm uy nên chỉ thấy lòng trắng nhiều hơn. Ông kể lại khi chúng cùm tréo tay ông ngược vào thân cây, lòng ngực muốn xé ra đau đớn vô cùng, nước mắt chảy cho dù hết sức chịu đựng, chúng còn thoi, đá và bảo tại sao lại khóc...dù chúng chỉ đáng tuổi con cháu. Nhưng những thao tác của chúng giống như một đồ tể với mục đích cuối cùng làm cho con người không cùng giai cấp phải chết, cho dù già hay trẻ, có cùng giòng máu đi nữa nhưng khác lập trường giai cấp thời phải chết. Câu đầu của tam đoạn luận: Làm người phải chết và bây giờ tại Việt Nam: Không cùng giai cấp phải chết
Ám ảnh sợ cô đơn, sinh hoạt nơi các trại lao động khổ sai có nét chung, lúc thảnh thơi nhất trong ngày có lẽ là khoảnh khắc trước giờ điểm danh buổi chiều để chuẩn bị nhốt “vào chuồng” ban đêm. Trước ít phút điểm danh đó, các tù nhân thường đổ ra các hành lang để trò chuyện với nhau, giống như những chú cừu trong đàn cừu cần sưởi ấm cho nhau. Ai ai cũng tìm người tâm sự để được nói hay được lắng nghe, đúng hơn là tránh nỗi ám ảnh cô đơn trong thời gian bị cách ly xã hội lâu dài.
 Ám ảnh sợ ung thư, tù nhân nguyên Chủ tịch một phong trào, án hai mươi năm, tuổi bảy mươi, do thời gian lao cải lâu dài, thường nằm nhà kỷ luật khiến cụ bị tháo dạ thường xuyên, luôn ám ảnh về mình có thể bị ung thư đường ruột, về sau cụ bị chết do các biến chứng từ ruột già và không biết có phải là ung thư thật hay không. Tù nhân khác, án hai mươi năm, tuổi gần bảy mươi, trông cụ rất mạnh khoẻ nhưng lại luôn ám ảnh về chứng ung thư như hơi đau bụng một tí là cụ than có thể đường ruột bị hư, có một tí mụt nhọt cụ cũng đầy lo lắng... Chính vì trong môi trường quá khắc nghiệt khiến nhiều người  bị ám ảnh mọi thứ, cũng từ sự sợ hãi quá mức nên cụ nổi tiếng trong việc đút lót cán bộ thậm chí nghe tiếng đồn từ rất nhiều tù nhân ông còn nhận một nữ cán bộ làm con nuôi, trong khi đối với các bạn tù thì rất dè sẻn từng tí một. Vì theo ông chỉ có cán bộ mới nhanh chóng đưa ông đến nơi chữa trị ung thư... mà đúng là ung thư tâm thần.
Ám ảnh sợ chết, các tù nhân mặc dù bề ngoài rất vui vẻ, gặp ai cũng chào hỏi, song trong lòng luôn mang nỗi âu lo sợ hãi về cái chết, họ thường tâm sự: Trong tù dễ chết quá, tất cả mọi nẻo đường từ vệ sinh ăn ở sinh hoạt, nhất là cách cai trị của các cán bộ đều nhằm đưa đến cái chết... và sau rốt họ chỉ mất tờ giấy khai tử. Một tù nhân án chung thân, tuổi ngoài sáu mươi, luôn nghĩ đến đoạn đường dài đã trải qua, rồi những ngày sắp đến với tuổi già mà sự giảm án hầu như nhỏ giọt khiến luôn băn khoăn: không biết sẽ có ngày về với gia đình hay không, nhất là tuổi cao nhưng đã bị đánh đập nhiều ngay lúc bị bắt tại địa phương, hậu quả suốt những ngày trong tù ông mắc nhiều chứng nan y như đường ruột, tim mạch, suyễn.
Ám ảnh sợ vật nhọn, có lẽ điều ám ảnh nầy dành cho phía cán bộ cai tù nhiều hơn cả, đến nỗi họ nghiêm cấm các tù nhân không được giữ bất cứ vật bén nhọn nào, và công việc kiểm tra hầu như xảy ra thường xuyên tại các phòng nơi ăn ở của tù nhân cũng như chung quanh trại. Hậu quả của những vụ trấn áp với lý do không được dùng các vật bén nhọn nầy đã dẫn đến không biết bao tù nhân bị vào nhà kỷ luật, vì trong sinh hoạt hằng ngày không thể không có các vật bén nhọn như dao, các vật cắt để chế biến thức ăn. Trong nỗi ám ảnh nầy vì các cai tù phải lo cho chính bản thân của họ, các giám thị trại giam sợ nhất là những cuộc bạo loạn mà đối tượng đầu tiên bị nhắm đến trước hết chính là các cai tù, đàng khác để trật tự trong trại giam được ổn định. Một khi các tù nhân lương tâm bị mang đi giấu, nhốt chung với tù hình sự như có lần tại trại Xuyên Mộc, thuộc miền Nam Việt Nam mọi người đều chứng kiến vào mỗi trưa hay xảy ra cảnh thanh toán nhau giữa các nhóm, các đại bàng, chúng dùng dao nhọn hay vật nhọn đâm ngay vào tim của đối thủ khiến chết ngay tại chỗ là chuyện bình thường. Nhiều tù nhân án cao từng trải qua những kinh nghiệm đau thương, nguyên văn: Có những lúc lưỡi lê nòng súng nó làm cho mình sợ hãi, nhưng đến một lúc nào đó thì nó không là gì cả, họ đã bị công an biến thành những con người còn đó nhưng với ánh mắt thẫn thờ, tấm thân khô đét lại đầy bệnh hoạn, cán bộ chấp cung đã dùng các vật nhọn để thụi, đâm thọt vào người các tù nhân nầy.
Ám ảnh sợ tất cả, đây là tâm trạng chung của các tù nhân, chỉ có rất ít và có lẽ cũng chỉ có một hai người là không biết sợ khi chẳng may vào các trại tập trung cộng sản, và người mà ai cũng rõ có thể làm biểu tượng không biết sợ trong đấu tranh cho quyền của con người là Linh Mục Nguyễn Luân và ông đã chấp nhận đi đến cái chết. Còn tất cả đều mang nỗi ám ảnh sợ đủ thứ... nghĩ đến sự thất bại cuối cùng đến lúc chết vẫn còn sợ, như ít ra là sợ bị chôn cạn làm hoen ố môi trường. Một lão ông, án chung thân, tuổi ngoài bảy mươi, thật tội nghiệp mỗi khi nghe có cán bộ đến, hoặc gọi cụ đi làm việc là tay chân cụ run bấn cả lên. Môi cụ run run nói lên nỗi ám ảnh dù cái chết với cụ đã rất gần do tuổi cao, nhưng chính môi trường với những con người dã tâm khủng bố khiến già trẻ đều sợ: Tất cả họ đeo theo mình ám ảnh sợ hãi không phải về cái chết vì ai nấy thật sự đều không sợ cái chết, xem cái chết nhẹ như tơ hồng nên mới dám chống lại cộng sản, nhưng nỗi ám ảnh sợ thật sự đó là: cái chết được trải ra và những kẻ đứng ra hành quyết con người lấy làm khoan khoái. Họ là con người thật vốn sinh ra có nhân tính, nhưng nhân tính ấy được trang bị bằng mệnh đề: Kẻ thù giai cấp phải chết. Tất cả chúng ta sống gần họ nhiều khi thấy họ rất đáng thương là đàng khác, vì thật sự nó chỉ khác cái nọc nằm ở đuôi . 
Ám ảnh lo sợ thực hiện, các tù nhân lo sợ ám ảnh biến thành sự thực như lo sợ mất ngủ và mất ngủ thật. Có tù nhân, án chung thân, tuổi ngoài năm mươi, ông thường tâm sự: Tôi rất sợ mất ngủ và thường xuyên mất ngủ thật... lý do hay nghĩ vẩn vơ về mọi thứ, những ý tưởng cứ đến liên tục và cứ thế cho đến gần sáng mới chợp mắt được... người khác, án hai mươi năm, tuổi trên năm mươi, ông cho biết đêm nào cũng không ngủ được, mặc dù rất sợ mất ngủ và cố gắng ngủ, nhưng đêm nào đến gần sáng mới chợp mắt được. Nó giống như ở kiên giam vậy chỉ ngủ vào ban ngày còn ban đêm thì thức.
Ám ảnh hồi ức, tù nhân trong trạng huống nầy hay nhớ lại một sự kiện hết sức khó chịu, một sự đau khổ trong quá khứ làm cho họ xấu hổ, hối hận và cố gắng quên đi nhưng không sao quên được. Tù nhân trốn trại, án mười lăm năm,  tuổi năm mươi, luôn ám ảnh và nhớ lại cuộc nổi dậy đào thoát bị thất bại khiến ông từ tập trung lên án cao, và trở nên trầm uất vì nay đã lớn tuổi khó mà thực hiện việc đào thoát được nữa. Những hơi thuốc lào thật dài như đưa tù nhân này vào quên lãng bao nhọc nhằn, tủi nhục, đau đớn, kỷ luật kiên giam bị đánh đập tàn nhẫn đến bản án lâu dài. Tù nhân khác, án trên mười năm, tuổi bốn mươi, trầm uất, anh luôn mang nỗi ám ảnh sau vụ bạo động trốn trại thất bại, đó là khi việc đào thoát không thành anh đã quay lưng lại các bạn tù đang đào thoát bằng những câu: -Cứu tôi với cán bộ... bọn chúng đã ép buộc tôi... Cho dù có kêu cứu và lập công khai báo để chuộc tội nhưng bọn cai tù cũng không tha cho anh, chúng tiếp tục tăng án cao và chuyển đến trại Thung Lũng Tử Thần.
Ám ảnh nghi ngờ, tù nhân rơi vào tình huống nầy hay hoài nghi các sự việc đã làm không biết có quên thực hiện hay không, như phân vân không biết đã phủ kín chiếu chỗ nằm hay chưa khi ra khỏi phòng giam, nghi ngờ đủ mọi thứ như khi ra khỏi phòng họ hay làm dấu ở chỗ nằm để xem khi trở về có bị mất dấu, hầu suy đoán có đang bị theo dõi hay không, nhất là trước lúc ra đi  luôn xem những vật cần giấu kín đã cất đúng chỗ hay chưa, mọi ánh mắt dù ngay của đồng phạm cũng luôn đặt sự nghi ngờ nơi họ. Các tù nhân mà sự nghi ngờ trong họ đến mức có khi đội ngũ đã xếp hàng chuẩn bị xuất trại mà vẫn còn chạy vào phòng giam để xem những vật dụng mà có lẽ chỉ chính họ mới biết đã cất giữ theo ý hay chưa... 
Khuynh hướng ám ảnh, đột nhiên người mang chứng nầy muốn chửi một kẻ qua đường, ném đá vào xe đang chạy, nhảy qua cửa sổ, đâm chết người thân. Khuynh hướng nầy làm cho bệnh nhân đau khổ và sợ, một phần sợ mình thực hiện cái xu hướng đó, một phần không hiểu tại sao mình có những ý nghĩ quái gở như vậy. Hành vi quái gở nầy thường thấy xuất hiện nơi các cán bộ quản lý trại giam, mặc dù sinh hoạt trong điều kiện tự do hơn, song như nhiều cán bộ đã phát biểu: Các anh là tù trong, chúng tôi là tù ngoài. Thật vậy dù có điều kiện hơn các tù nhân nhưng với môi trường khắc nghiệt khiến họ cũng bị biến đổi về tâm sinh lý nhất định. Đột nhiên khi đang dẫn tù đi, họ thấy chó thì chửi chó, thậm chí còn ném đá chúng. Có người thì thích đánh đá các tù nhân suốt dọc đường từ khi xuất cổng trại giam cho đến hiện trường lao động. Có người lại chửi thề thô tục suốt dọc đường đi. Có tù nhân thường chửi thề suốt ngày, và mỗi khi nói như vậy, sau đó họ tỏ ra tiếc rẻ, hối hận về điều mình nói, song khoảnh khắc không lâu lại nói tiếp, rồi tỏ ra ân hận lần nữa .
Hành vi ám ảnh: những động tác thực hiện ngoài ý muốn, ngoài sự cố gắng tự kiềm chế. Đó không phải là những động tác tự động mà là những động tác đã thành thói quen khó bỏ được, chúng không kèm theo ám ảnh sợ. Cán bộ chuyên cắt nhượng chân tù nhân, tuổi ba mươi, mỗi khi gặp nữ cán bộ cùng cơ quan hoặc các cô gái quanh trại giam mà y gặp trên đường đi, y liền phát ngôn những lời thật tục tĩu của giới giang hồ... một cách thích thú không e thẹn, một số các cán bộ trại giam đều có sự thể hiện của khuynh hướng nầy, ngay cả các trưởng trại có khi còn sỗ sàng hơn thế. Một  trưởng trại ở Thung Lũng Tử Thần, tuổi năm mươi, mỗi khi gặp cán bộ nữ, y ăn nói thật thô tục như ngoài những lời chửi thề, gọi phụ nữ là con nầy đĩ kia, cả những lời dùng trong giao phối... với nam cán bộ thì y dùng những lời mạt sát như thằng nầy, thằng kia, toàn một lũ ăn hại... ăn bám.v.v. tiếp theo nhau là điệp khúc chửi thề thô tục... Trông y cao ráo, khuôn mặt đẹp lão nhưng không ai rõ cái tuyến nào, hạch nào đã chi phối trên con người này mạnh mẽ đến thế.
Nghi thức ám ảnh, những động tác ám ảnh phát sinh cùng với ám ảnh sợ, những nghi ngờ, có ý nghĩa như để tự vệ, để thoát khỏi nguy hiểm tưởng tượng. Người tù có ám ảnh sợ các bạn tù lần lượt ra đi, hoặc khi đi ra khỏi nhà kỷ luật, bệnh xá... hay nhìn lại đôi ba lần mới yên tâm. Tâm trạng chung của các tù nhân trong tình huống nầy là nghi ngờ có gì bất trắc đang xảy ra chung quanh mình, biểu hiện qua các động tác như mỗi khi đi hay quay nhìn lại, giả vờ cúi xuống sửa dép, hay đánh rơi vật gì.v.v. để xem có ai theo dõi mình hay không, nhưng thật ra hầu hết các nỗi ám ảnh đó là do sự tưởng tượng thái quá mà thôi. Tù nhân nguyên Chủ tịch một Mặt trận, án hai mươi năm, tuổi sáu mươi, ánh mắt ông như luôn dáo dác nhìn về phía trước để xem có ai sắp ám hại mình hay không, tù nhân nầy hay nói: tôi đã bị quá nhiều kẻ hại mình từ các du kích, công an địa phương cho đến trại tù cũng chưa yên trong chế độ nầy, nên tôi quá sợ... Bây giờ chỉ còn là sự cảnh giác trước cái chết mà thôi. Nhưng các tù nhân hay tiếu: Chúng tôi lại cảnh giác ông vì ông nhận làm bố nuôi của một viên trưởng phân trại Xuân Lộc Đồng Nai.
Giảm nhớ, sự suy giảm trí tuệ thể hiện qua việc giảm nhớ những sự việc mới xảy ra hay sự việc cũ gặp trong loạn tâm thần tuổi già, liệt tiến triển, loạn tâm thần suy nhược. Tù nhân án hai mươi năm, tuổi gần sáu mươi, nguyên là một giáo viên ngoại ngữ, khi vào tù ông bị mù do nhốt ở phòng tối quá lâu, rồi trí nhớ giảm dần, nên hằng ngày ông luôn luyện tập ký ức như tập đọc lại những gì mà ông trực nhớ lại nhiều lần, theo ông sau đó vẫn quên vì một là tuổi đã cao và trong điều kiện môi trường thiếu thốn về vật chất cũng như sự khủng bố trấn áp thường xuyên, như mọi người mù được miễn lao động song bị đưa đi nhốt ở một nơi riêng với những lời chửi bới làm nhục nào là thành phần ăn bám, trốn lao động... 
Tăng nhớ, người tù trong tình huống nầy nhớ lại những sự việc rất cũ, cả những sự việc không có ý nghĩa hay những chi tiết vụn vặt, gặp trong trạng thái hưng cảm. Tù nhân gốc nhà giáo, án chung thân, nói về những chi tiết của triết học Đông phương, Tây phương mà tưởng chừng sẽ không ai nhớ nổi...  Quả thật bao giờ nói về điều nầy ông cũng lộ rõ sự hưng phấn của mình, ông bị chết do áp huyết cao mà phải lao động khổ sai. Nhiều tù nhân trong câu chuyện bao giờ cũng tiếc rẻ về một nền văn minh đương đại đã đến với chúng ta lần thứ nhất, chúng ta đã không tiếp đón và học hỏi cái hay mà lại đánh đuổi họ ra đi; lần thứ hai với người Mỹ trong biết bao cái tuyệt vời nhất của thời đại, thật là cơ may khôn cùng với dân tộc Việt Nam, nhưng rồi chúng ta cũng lại xô đuổi họ ra đi... ôi là những chuyện đáng tiếc cho dân tộc nầy... Các tù nhân luôn kể về lịch sử đấu tranh cho nhân quyền của các tổ chức một cách mạch lạc, đến nỗi có nhiều chi tiết tưởng chừng như chỉ có người trong cuộc mới nhớ nổi... nào các tổ chức Liên Tôn, Hội ái hữu các tù nhân lương tâm trong nhà tù cộng sản do các Linh mục và nhiều người thành lập tại trại Thung Lũng Tử Thần, cũng chính vì tổ chức nầy ra đời đã đưa nhiều người trong đó có các Linh mục, Tu sĩ bị kiên giam đến chết. Đối với tù lương tâm, sự hưng phấn đến với mỗi người dường như cũng là cái nghiệp của người ấy.
 Quên, nhiều tù nhân án chung thân, tuổi trên ba mươi, sau một thời gian lao lý trên mười lăm năm, những người nầy trở nên bất bình thường trầm trọng như không còn nhớ rõ việc trước việc sau, chốc nữa sẽ làm việc gì. Họ rất cố gắng trong việc luyện trí nhớ, nhưng khi đọc xong chữ sau đã quên chữ trước. Sinh hoạt hằng ngày cũng hoà nhã với anh em nhưng dễ nổi nóng và rất hay bị kích động. Có một tù nhân sau một thời gian dài lao lý trên mười năm, dù tuổi rất trẻ nhưng trí nhớ giảm hẳn, mọi người khuyên anh học thêm, tù nhân nầy cũng như nhiều bạn trẻ khác rất nỗ lực nhưng không có kết quả như học trước quên sau... Anh rất dễ bị kích động, có lần vì sự khiêu khích mà anh cùng một bạn tù trẻ khác đã quên hết sự nguy hiểm và dùng cuốc xẻng đánh nhau suýt chết. Sau vụ “quên” đó, anh trở nên thờ thẫn và chậm chạp càng không linh hoạt như trước nữa.
 Quên toàn bộ là quên những sự việc cũ và mới thuộc mọi phạm vi, gặp trong trí tuệ sa sút nặng. Quên từng phần là quên một số kỷ niệm, quên ngoại ngữ, quên thao tác nghề nghiệp. Tình trạng quên từng phần hầu như các tù nhân thụ án lâu năm đều mắc phải, chỉ duy ở mức độ nặng nhẹ khác nhau như đan cử: một  tù nhân án chung thân, tuổi năm mươi, sau thời gian hơn mười năm lao cải và di lý đến những trại giam khác nhau, gia đình thăm viếng cũng thưa dần vì kinh tế quá khó khăn, anh bắt đầu có triệu chứng ù tai và sau đó điếc dần cũng như chứng kém trí nhớ phát triển ngày càng nhanh, theo sự diễn tả của anh: hình như cái não của tôi nó cô lại chỉ còn ít tế bào trong số mười tỷ là còn hoạt động như về quan hệ thân tộc ông chỉ còn nhớ tên vợ chứ không còn nhớ họ lót, các con có cháu nhớ tên quên chữ lót, có cháu chỉ còn nhớ tên lúc còn nhỏ. Hằng ngày trong sinh hoạt các vật dụng hay bỏ đâu quên đó và ai nói gì ông cũng vui vẻ chấp nhận nhưng luôn với câu: Thế hả...thế hả... Tù nhân khác án trên mười lăm năm, tuổi trên năm mươi, bị cụt một chân, ông còn nhớ một ít câu thơ và ngâm vịnh thường xuyên nhưng lại đọc trước quên sau, nhiều lúc ông tâm sự: Tức quá tuổi già và sự giam giữ cách ly với xã hội quá lâu dài trong thiếu thốn đã làm cho con người mình trở nên ngày càng đần độn.
Quên thuận chiều, quên những sự việc xảy ra ngay sau khi bị bệnh một thời gian từ vài giờ đến vài tuần. Gặp trong chấn thương sọ não. Một kỹ sư, án hai mươi năm, tuổi trên năm mươi, ông bị đột qụy, rồi liệt hẳn một cánh tay, theo các y sĩ trong tù ông bị đứt mạch máu não, về sau tù nhân nầy hầu như quên hết mọi chuyện cả quá khứ lẫn hiện tại, các bạn tù thường xuyên chăm sóc và gợi ý để ông có thể hồi phục trí nhớ, nhưng cơn bệnh ngặt nghèo do lao cải quá lâu đã dần đưa ông đến sự bại liệt toàn thân cùng trí nhớ mất hẳn và chết tại trại giam. 
Quên trong cơn, người tù chỉ quên sự việc xảy ra trong cơn, trong thời gian bị bệnh, gặp trong cơn động kinh. Có tù nhân, án mười lăm năm, tuổi ba mươi, do bị tra tấn quá nặng, theo lời kể của anh, hậu quả về sau bị mắc chứng động kinh, thường vài hôm lại lên cơn động kinh, và trong cơn động kinh anh không còn nhớ gì hết, cả thân người run lên, tay chân co giựt hay rút lại... Thế nhưng lúc hết cơn anh lại sinh hoạt bình thường. Tù nhân khác, nguyên là Thiếu tá trong chế độ miền Nam trước đây án hai mươi năm, tuổi trên năm mươi, mắc chứng động kinh, vào những lúc đó hầu như ông không còn nhớ gì cả, song hết cơn động kinh tù nhân này trở lại sinh hoạt bình thường dù có chậm chạp do thời gian giam giữ quá lâu dài.
Quên do ghi nhận kém, thường là quên thuận chiều. Tù nhân án chung thân, tuổi ba mươi, do thời gian lao cải quá lâu cùng các chứng bệnh nan y ngày càng thêm nặng khiến trí nhớ của anh kém dần, như khi lên cơn suyễn hoặc những lúc ho ra máu anh chỉ còn nhớ mình còn thở được đến hơi thứ mấy và không biết lá phổi có còn hoạt động nữa hay không. Tù nhân khác án hai mươi năm, tuổi năm mươi, bị tim mạch cùng áp huyết cao, mỗi khi lên cơn co giựt ông chỉ còn những lời cầu xin trăn trối: -Cứu con với Chúa ơi... Không biết gì hết trong sự vật lộn với tử thần, sau đó ông chết trong đau đớn.
Quên do nhớ lại kém, thường là quên ngược chiều. Ông lão án hai mươi năm, sau một thời gian dài ở tù cùng tuổi cao, trí nhớ ông hầu như giảm dần, cụ chỉ còn nhớ tên một vài người bạn cùng chiến đấu với mình ngày xưa, nhất là trong suốt cuộc đời binh nghiệp, ông chỉ nhớ đã bắn có mười hai phát súng và luôn thêm câu xác nhận chỉ bắn có chừng ấy mà thôi, cấp bậc của cụ là Trung tá trong chế độ miền Nam trước đây. Hầu như ông đã quên hết những tri thức đã từng thụ bẫm. Cụ khác tuổi gần bảy mươi, sau một thời gian lao cải lâu dài hầu như trí nhớ cụ giảm hẳn khi tuổi tù cùng tuổi đời ngày càng cao. Suốt ngày cụ chỉ lo trau chuốt những cây gậy cho thật đẹp, vì cụ bịnh già nên được miễn lao động nhất là mỗi khi ra hiện trường lại phải tốn công khiêng về .
Quên tiến triển, quên cố định, quên thoái triển, có một lão ông thời nào cũng bị ở tù vì theo cụ triều đại nào cũng có bất công và cụ chống lại những bất công đó, từ Pháp đến Mỹ, cộng sản... tuổi cao mắt cụ yếu hẳn đến gần mờ, tai cũng không còn nghe rõ nữa, trí nhớ giảm hẳn như những gì vừa mới xảy ra cụ quên ngay, thế nhưng với những gì xảy ra cách đây dù vài chục năm cụ lại nhớ rất rõ. Một Linh Mục Dòng Đồng Công, án hai mươi năm, tuổi ngoài bảy mươi, tâm hồn Ngài rất thanh thản mặc dù ngài bị chụp mũ tuyên truyền chống chế độ cộng sản, sống bên vị Linh mục nầy người ta nhận thấy không có sự oán thù mà chỉ có sự tha thứ, do tuổi cao cùng sự giam giữ lâu ngày, trí nhớ giảm dần như những gì thuộc quá khứ cụ nhớ rất rõ và nếu ai biết gợi ý cụ sẽ kể lại rất tỉ mỉ, song những gì đang xảy ra như đến giờ dùng cơm cũng phải có người nhắc và đưa đi dùng bữa, cụ mới nhớ ra. Một sĩ quan cấp tá, án mười lăm năm, tuổi năm mươi, từ khi bị bắt, bị tra tấn, sau đó hậu quả mắc chứng hay quên, nhưng do ý chí quyết tâm luyện tập, dù tuổi ngày càng cao vẫn không tăng, anh sinh hoạt bình thường và lúc nào cũng cầm theo những mảnh giấy nhỏ đầy tiếng Anh bên mình để luyện trí nhớ. Một Linh mục khác cũng thuộc Dòng Đồng Công, án hai mươi năm, tuổi ngoài bảy mươi, mặc dù tuổi cao song cụ rất minh mẫn, những ngày mới bị bắt do bị trấn áp và khủng bố thường xuyên nên trí nhớ của cụ có giảm sút, nhưng sau đó cụ lấy lại tinh thần, và thật sự những ai có dịp hầu chuyện với vị Linh mục cao niên nầy đều thấy cụ rất tỉ mỉ trong những câu chuyện ở quá  khứ và cả những gì đang xảy ra, cụ cũng chết trong tù do tuổi già. Một Nhà giáo, một lãnh tụ của phong trào dân chủ ở miền Trung, án chung thân, tuổi năm mươi, sau nhiều năm bị kỷ luật, kiên giam khiến trí nhớ ông bị giảm sút trầm trọng, sau đó ông đã cố gắng luyện tập ký ức và có thể nhớ lại dần dần... Nhưng chẳng may số phận nghiệt ngã đã đến, ông ho ra máu thường xuyên, căn bệnh lao phổi đã cướp đi sinh mạng của ông trong tù.
Nhớ giả, đối với những sự việc có thật trong cuộc sống trong một thời gian và không gian nào đó, thì người bệnh lại nhớ vào một thời điểm và không gian khác. Các cụ do tuổi già sức yếu cùng thời gian lao cải kéo dài khiến trí nhớ của cụ nào cũng trở nên lộn xộn về không gian và thời gian, như nhầm ngày sinh với ngày ra toà, nhầm Tết Tây thành Tết Ta... Sinh hoạt hằng ngày trông thì đi lại bình thường nhưng hay quên vật này ở chỗ nọ chỗ kia.
Bịa chuyện, người tù trong tình huống này quên các sự việc đã xảy ra và thay vào chỗ quên lại kể đến những sự việc không hề xảy ra với mình, nhưng bản thân người bệnh không biết là mình bịa ra. Nội dung bịa chuyện có thể thông thường hay kỳ quái. Các tù nhân từng qua trại Thung Lũng Tử Thần đều không quên được hình ảnh vài nhân vật chuyên bịa tin vịt... Những người nầy biết rõ thị hiếu của tù chính trị là thích nghe tin tức, nên lúc nào bất kể giờ nào, ngày nào... họ cũng có thể phịa ra những thông tin rất bịa đặt từ BBC, VOA... để làm quà cho các bạn tù. Thật sự có người không bao giờ dùng những thông tin đó để lừa bịp ai song có điều chính họ lại tin vào những sự bịa đặt ấy là thật. Có tù nhân hay kể chuyện ma cũng như những chuyện trinh thám, và ai cũng biết từ những cốt truyện đó họ đã phịa ra những chuyện khác theo cốt truyện đã có sẵn thật hay, mọi người biết rõ chuyện phịa nhưng lại rất thích nghe. 
Nhớ nhầm, người tù nhớ việc mình thành ra việc của người khác, hoặc ý nghĩa sáng kiến của người khác thì nhớ ra là của mình. Những điều nghe người khác kể lại hoặc thấy ở đâu thì tưởng là những điều mà bản thân mình đã sống qua. Có người bệnh lại tưởng mình đang sống trong dĩ vãng. Một số tù nhân hay nhớ nhầm chuyện nầy sang chuyện khác, nhất là mỗi khi có ai kể chuyện gì họ vẫn thường nói tiếp lời: À tôi cũng như thế... Tôi cũng vậy, Tôi cũng đã trải qua tình cảnh như thế.v.v. Có tù nhân hay kể lại những chuyện của người như thể của chính họ, hay nói về những phát minh những công trình khoa học như chính mình đã từng tham gia, nhưng khi hỏi về nội dung thì họ không thể trả lời được. Trong sinh hoạt hằng ngày các tù nhân nầy rất thích đọc sách và thích giao du với những người có trình độ .
Chú ý suy yếu, người bệnh không thể tập trung sự chú ý vào một việc gì lâu được, mà rất dễ bị phân tán tư tưởng. Gặp trong loạn thần kinh suy nhược và các bệnh thực thể của não. Các tù nhân thuộc loại nầy rất phổ biến, họ không bao giờ đứng ngồi yên một chỗ, không có câu chuyện nào mà không tham gia nhưng rồi chỉ một vài câu gọi là “xía vào” rồi lại bỏ đi. 
Chú ý trì trệ khi năng lực di chuyển sự chú ý của người bệnh rất kém, người tù chú ý tập trung vào một chủ đề, một đối tượng trong một thời gian tương đối lâu, nhưng di chuyển sự chú ý từ vấn đề nầy sang vấn đề khác thì chậm chạp. Thường gặp trong bệnh động kinh, bệnh tâm thần phân lịêt và trạng thái trầm cảm. Tù nhân nguyên là sĩ quan, án trên mười lăm năm, tuổi bốn mươi, anh thường vui vẻ và nói: -Xin thông cảm với những người tù trên mười năm... Thật vậy với chính anh mỗi khi chuyển sự chú ý từ vấn đề nầy sang vấn đề khác, từ công việc nầy nọ khác nhau đều thích nghi rất chậm, nghĩa là phải có một khoảng cách thời gian. Một trường hợp khác, tù nhân nầy đang khoẻ mạnh nhưng vì cố tranh tiên tiến và lao động quá sức để được giảm án, hậu quả dẫn đến đột quỵ vì làm nhiều mà ăn rất ít, sự cố tai biến mạch máu não đã làm ông liệt nửa người và cũng từ đó không còn linh hoạt như trước, mọi sự chú ý như đang thờ thẫn về một cõi xa xăm vô định không biết nó là cái gì. Trước giờ tử thần gọi các bạn hữu có dịp gần gũi chăm sóc vì trước đó ông đã tách biệt ra hẳn với mọi người trong sự biện luận: chó sủa mặc chó đường ta ta cứ đi... để được sớm trở về đoàn tụ theo lời hứa của những cán bộ cộng sản.
Chú ý di chuyển nhanh chóng, người tù không thể tập trung sự chú ý vào một đối tượng cần thiết mà luôn luôn di chuyển sự chú ý của mình từ vấn đề nầy sang vấn đề khác. Thường gặp trong trạng thái hưng cảm. Các tù nhân thuộc loại nầy hầu như không tập trung vào một chủ đề gì cả, vấn đề nào của các bạn tù họ cũng thoáng qua nhưng không góp ý, giải quyết, các tù nhân khác gọi họ là “ba phải”. Họ rất vui vẻ và hoà đồng với mọi người.
Giảm động tác gặp trong trạng thái lú lẩn, các tù nhân bị bệnh đột xuất hằng ngày, cũng như những người bị mắc bịnh kinh niên mãn tính đều bị nhốt cách ly chung với nhau trong căn phòng nhỏ chật chội, thường trại giam nào ngoài bệnh xá còn có một phòng nhốt tù bệnh nầy, sự khó chịu hôi hám, lây nhiễm từ người bệnh nhẹ thành nặng hơn sẽ khiến các tù nhân ngại khám bệnh vì được nghỉ bệnh sẽ bị giam vào những nơi như thế. Thậm chí có người sốt cao vẫn cố gắng theo ra hiện trường, rồi nằm vật vã dưới những lùm cây, nhưng nơi ấy vẫn hơn là mang nỗi ám ảnh rước thêm bệnh vào thân. Tất nhiên với loại phòng giam dành cho người bệnh kiểu đó thời ai cũng nằm một chỗ, không có không gian cho việc đi lại và thật sự tù nhân nào vào đây cũng đã lâm trọng bệnh. Đặc biệt các cụ già trên bảy mươi tuổi được miễn lao động song tất nhiên đều bị nhốt vào loại phòng nầy, khiến nhiều cụ chỉ riêng nỗi ám ảnh bị lây bệnh cũng đủ mau đến dần cái chết. Các tù nhân cũng chứng kiến có thời gian những người cao tuổi trên bảy mươi đều phải ra hiện trường lao động, và theo sự giải thích của cán bộ quản giáo: nếu không làm được việc nặng thì làm việc nhẹ. Một tù nhân do bị giam giữ lâu ngày trong phòng tối khiến các cơ của đôi chân bị teo lại, lúc nào cũng phải nhờ cặp nạng mới nhích chân được. Ngoài ra còn có các tù nhân mà sự giảm vận động thấy rõ như có tù nhân án chung thân, tuổi hai mươi, bị bắn lúc bị truy bắt, do không được chữa trị nên mảnh đạn hãy còn ở chân, việc đi lại rất khó khăn, lúc nào cũng phải chống nạn, tuy vậy anh cũng bị buộc phải lao động khổ sai, thường các tù nhân nầy phải ngồi lết dưới đất để xúc cát, đá... cho các tù nhân khác khiêng đi.
Mất vận động, mất động tác gặp trong trạng thái bất động ở loạn thần kinh hysteria tâm thần phân liệt. Tù nhân tên gọi là Phúc, cụ tuổi bảy mươi, án mười lăm năm, sau một thời gian lao cải bị bán thân bất toại phải nằm liệt đại tiểu tiện ngay tại chỗ nằm, vẫn ăn uống bình thường, khiến cả phòng luôn hôi thúi trong một thời gian dài vài tháng, nhưng giám thị vẫn không có cách giải quyết, người khổ nhất vẫn là trưởng phòng đã cùng các bạn tù khác luân phiên lau dọn, việc nầy xảy ra tại trại Xuân Lộc, thuộc miền Nam Việt Nam. Các tù nhân án cao và trải qua thời gian lao cải lâu dài trước khi chết thường mất vận động như tù nhân Phạm văn Dụ, Lê Mại, Linh Mục Nguyễn Luân, Linh Mục Nguyễn văn Thuyên, LM Trần văn Long, Lm Nguyễn văn Phong, LM Nguyễn văn Vàng, Linh mục Nguyễn Huy Chương, Linh mục Nguyễn văn Hiệu án tử hình, Cha Long chết tại Trại giam Chí Hòa vì bệnh kiết lỵ... Và điểm đặc biệt có rất ít Nhà sư bị chết trong tù, cho dù có vị phải thụ án lâu dài và bị kiên giam trường kỳ.
Tăng vận động, tăng động tác, người tù có những động tác thừa, động tác tự động như run, nháy mắt, máy môi, nhún vai... Gặp trong trạng thái hưng cảm, trong tâm thần phân liệt. Một lão ông án muời bốn năm, lúc nào cũng lớn tiếng hùng hổ, thô tục lắm, nhưng mỗi khi nghe có vấn đề gì liên can đến an ninh như sắp bị làm việc là tay chân muốn run lên cùng đôi môi bắt đầu mấp máy, đi lại muốn té... Nỗi ám ảnh sợ hãi khiến các cơ bắp ông tăng vận động cùng sự bài tiết liên tục, biểu hiện qua những lúc ấy ông thường một tay ôm bụng gần bộ phận bài tiết. Theo lời ông kể trong các lần làm việc như thế ông xin “đi giải“ không biết bao nhiêu lần. 
Động tác dị thường là những động tác không có ý nghĩa, không cần thiết, có tính chất định hình như siết mạnh tay, ngửa mặt nhìn trừng trừng. Thường gặp trong tâm thần phân liệt. Có tù nhân tuổi bốn mươi, bị đâm mù hai mắt lúc hỏi cung, mặc dù bị mù nhưng mỗi khi ai nói hoặc hỏi anh chuyện gì... anh hay trố mắt và nhìn về phía trước hay nhìn lên một cách dị thường khiến người không quen dễ bị ám ảnh sợ về cái nhìn khác thường đó. Một Linh mục lạc quan, án hai mươi năm, tuổi ngoài sáu mươi, gặp ai cũng mừng rỡ có khi ôm hôn, vỗ vai, bóp tay chân... ngay giữa sân tù. Thật sự vị Linh mục nầy sống hồn nhiên như con trẻ .
      Giảm hoạt động gặp trong trạng thái suy nhược, trầm cảm. Có tù nhân sau một thời gian lao cải phải chịu nhiều nhục hình, cùng sự cách ly với người thân khiến họ không còn thích nói năng gì cả, những ai đã từng gặp các bạn tù thuộc nhóm nầy: đó là con người như những bức tượng câm, và mỗi khi sắp hàng xuất trại nó không khác gì hình ảnh những bức tượng được khai quật chôn dưới mộ Tần Thủy Hoàng và có lẽ nó sẽ mãi dán vào mắt đồng loại. Các tù nhân thuộc nhóm “tượng”nầy cũng không giao tiếp nhiều, ngoài công việc nấu nướng, ăn ngủ. Vì sau những biến đổi của cuộc đời trong cảnh tù cùng nhiều bệnh tật phát sinh khiến họ càng trở nên co rút, trầm cảm ít nói, mọi thời gian nếu có thể được đều dành cho việc trùm mền nằm yên một chỗ.
Việc trước tác trong tù như dịch và phổ thành thơ lục bát các tác phẩm quí hiếm đều xúc tiến trong bí mật và chẳng may công việc bại lộ sẽ bị cùm cho đến chết. Tại trại Thung Lũng Tử Thần, có cả phiên toà mở ra để tăng án cho các ngục sĩ loại nầy, nguyên là Thủ lãnh Luật sư đoàn miền Trung trước đây, cụ Lý Văn Hiệp đã bị mang ra xét xử vì tội nghe đọc thư chống lại chế độ mà không tố cáo, trong cuộc sống hằng ngày ngoài giờ lao động khổ sai cụ còn phổ thành thơ nhiều tác phẩm nổi tiếng. Các sáng tác về thơ ca được truyền miệng trong tù rất nhiều, ngoài ra các tù nhân còn đọc cho nhau nghe về các sáng tác từ các trại khác; và có cả những bản dịch triết học, chính trị, văn học... do các tù nhân có trình độ lén lút phổ biến cùng những bài soạn về chính trị, dân chủ, tự do, pháp quyền để nâng cao trình độ các tù nhân. Và đặc biệt với sự khắc nghiệt như trại Thung Lũng Tử Thần, vẫn có Kinh Thánh được tách ra từng trang nhỏ và chuyền tay nhau để đọc. Hầu như Linh mục nào cũng ngồi trong mùng dâng lễ riêng, và chỉ vài Linh mục là làm lễ bí mật có cộng đoàn từng nhóm nhỏ. Thiện Nam thường xuyên tham dự các Thánh lễ nầy mà sự hồi họp dường như có phần đưa con người đạt đến đỉnh cao của hạnh phúc hơn, cảm động nhất là lúc truyền phép Thánh Thể, nhiều khi Tiệc Thánh chỉ diễn ra ở phần nầy, còn trước sau chỉ là phần tạ ơn ngắn gọn. Những ai tham dự thường được rỉ tai với nhau trước để chuẩn bị tìm đến và thoát cho nhanh. Ngày Chúa nhật ở trại Thung Lũng Tử Thần các cánh cổng từ phòng nầy qua phòng khác đều khoá chặt, giảm bớt sự liên hệ với nhau. Nhiều tù nhân vào tù sau thuật lại các Giám mục đi ban phép thêm sức chui nhiều khi cũng chạy tháo thân như vậy, các tù nhân hay kể về Đức Cha Nicolas, Giám quản Tông toà Sài Gòn có lần công an rượt đuổi phải thoát cửa sau trên vùng biển Phan Thiết thuộc miền Trung Việt Nam. Dù khó khăn, nguy hiểm nhưng ai cũng hân hoan sau Thánh lễ, tất cả đều cảm nghiệm với chính bản thân của mình: tôi hân hoan không phải vì tung hô Chúa uy quyền, thật sự khi kinh qua những nơi diễn ra toàn sự ác, chúng ta sẽ nhận thấy dường như Thiên Chúa đã không can thiệp gì hết, nhưng tôi hân hoan vì Người dẫn dắt tôi trên đường công chính. 
 Hành vi xung động xuất hiện đột ngột, không có sự kiềm chế từ bên trong. Các hành vi nầy xảy ra vô cớ, vô nghĩa và mãnh liệt. Có ít tù nhân thường vào giữa trưa trời nóng bức, họ cởi quần áo và la lớn trong phòng giam, chửi rủa như đang đánh đá với ai vậy. Thế là vào những buổi trưa như thế, mọi người trong khu vực đó không ai nghỉ ngơi gì được cả, song các bạn tù cũng như cán bộ đều thông cảm vì họ có người bị mù hay mắc chứng nan y do hậu quả bị tra tấn quá dã man, như cách hành xử của các cán bộ phụ trách an ninh trại Thung lũng tử thần, đó là khi đang làm việc với ai cũng thường dùng các vật dụng có sẵn trước mặt nào gạt tàn thuốc, chìa khoá... ném vào mặt các tù nhân một cách mạnh mẽ không kiềm chế, không cần nghĩ đến việc sẽ gây hậu quả thương tích như thế nào đối với các tù nhân. Và thường xuyên khi làm việc với tù nhân nào cũng dùng roi điện đánh cho máu me của tù nhân đổ ra rồi ép cung cho vào nhà kỷ luật, mà nguyên nhân những chuyện xảy ra chỉ là nhỏ nhặt song chúng đều qui kết thành những con voi như vào tù mà còn “bán nước, hại dân, phản động...” Các cán bộ nầy lại là những kẻ vòi ăn của tù nhiều nhất, hầu hết về sau bị bắt quả tang nhận hối lộ của tù, hoặc đang hủ hóa vợ của nhau.
Say mê xung động xuất hiện có tính chất từng cơn, thường là các khát vọng xâm chiếm lý trí, chế ngự toàn bộ tác phong người bệnh. Người bệnh nhớ lại thời gian lên cơn một cách không hoàn toàn. Một Giám thị trại Xuân Lộc, Đồng nai, gặp ai y cũng la lối chỉ chỏ thế nầy thế nọ để tỏ ra ta có quyền lực. Thậm chí cả những tiếng chửi thề được văng ra để tỏ uy quyền. Với quyền lực giám thị ở một phân trại nhưng gần như y có toàn quyền quyết định về mọi vấn đề trong sự triệt hạ con người cũng như đối với các cán bộ dưới quyền của y. Nơi đây không còn luật pháp và nếu có chỉ là cái bóng để y lộng quyền. Tù nhân nào muốn đi phép về nhà cũng được, chỉ cần đút lót cho y. Tù nhân nào muốn ở lại với vợ hai vợ ba cả tháng cũng không sao vì y nhân danh chính sách mở cửa và cho xây nhà hạnh phúc để các tù nhân ở lại với gia đình, và ai cũng rõ muốn ra tự giác thì hối lộ cho y là được ngay...  Bảy đầu rìu là một Trưởng trại gian ác khét tiếng, cách cai tù của y giống như một lãnh chúa đầy uy quyền, và thật sự y có toàn quyền sinh sát trong tay. Các cán bộ dưới trướng của y đều một thưa hai dạ. Thế nhưng đã có một cuộc kiểm điểm xảy ra trong hàng ngũ cán bộ, đó là kiểm điểm “Chú Bảy” về việc dùng xe con của cơ quan để đưa một nữ tù nhân đi về thành phố, tù nhân nầy vốn đã rất đẹp nên được nhiều cán bộ để ý, vì tội trốn ra nước ngoài, và các cán bộ đã kháo nhau đến tai tù nhân: Ông Bảy đã đưa người đẹp đi phá thai... Hành vi xung động khác thường của tên trưởng trại này nhiều khi như điên loạn diễn ra trong việc sát hại tàn nhẫn các tù nhân trốn trại mà không chờ đợi có sự xét xử của toà án, với cái tên Bảy đầu rìu cũng đồng nghĩa vói sự giết chết bao người vô tội từ trong chiến tranh cho đến hoà bình, mà tất cả nhìn lại chỉ toàn là người Việt Nam, nhưng con người vô học đó có một sức mạnh, nó được trang bị bằng niềm tin: không cùng giai cấp vô sản là kẻ thù, và kẻ thù thì phải chết.
      
* *
 
Thiện Nam trở về, chàng ở tù gần hai chục năm, nhiều người may mắn còn sống với mức thi hành án còn cao hơn chàng. Thiện Nam nhớ lại những gì trên đất nước nơi mình sinh ra mà phân nửa cuộc đời bị giam trong tù: một đất nước có nhiều núi cao, sông sâu, có cả cao nguyên êm đềm với rừng vàng biển bạc, các đồng bằng và ruộng muối phì nhiêu. Tất cả những yếu tố môi trường đó, có lẽ đã tạo ra những con người Việt Nam mang những đối cực khác nhau, trong tù không có ngày nào mà không có đánh nhau, cũng như trên đất nước nầy không có giai đoạn lịch sử nào mà không có chiến tranh -Chiến tranh gây hận thù đến ngay cả những kẻ gieo mầm không hận thù cũng trở thành kẻ bị hận thù. Bao con người làm điều phi nghĩa nhưng luôn dựng cờ chính nghĩa, một dân tộc có nhiều đền thờ nhưng các bậc chân tu khả kính rất ít, giống như các vì vua minh triết đếm được trên đầu ngón tay ở đất nước này. 
Một đất nước với nhiều đối cực đến hận thù rồi trả thù, đây cũng là nét đặc trưng của nhiều dân tộc về tính dã man vẫn tồn tại trên hành tinh nầy. Trong huyền thoại về sự hình thành của người Việt: khởi thủy từ một trăm cái trứng nở ra trăm người con, thời năm mươi lên núi và phân nửa kia xuống biển... nghĩa là ngay từ đầu đã là một đối cực. Và một khi đối cực đó không còn là sự tương sinh mà là đối đầu, rồi được trang bị bằng các học thuyết từ bên ngoài; ở đây và bây giờ, việc giết người trở nên có chính nghĩa qua cái được gọi là: đấu tranh giai cấp.
Chính trường Việt Nam từ thôn xã đến phường, quận, huyện là một bãi chiến trường tranh giành, đố kỵ, tỵ hiềm vì miếng đỉnh chung. Ngày trước miếng đỉnh chung nầy được chia cho các dòng tộc, nhưng dù sao trong thời kỳ nầy còn có dòng họ nầy dòm ngó dòng họ khác, khiến nó luôn tồn tại trên căn để dòng tộc nào tốt hơn. Song hiện nay nó là thứ độc quyền đảng trị, không có mặt đối lập, nếu có là triệt hạ đối phương, nó không xuất phát từ khát vọng hay nhằm giải quyết các mâu thuẫn, nhưng chỉ gây nên các hận thù, đến triệt hạ nhau hoàn toàn, nó không xây dựng trên lề luật của các giá trị chung, giá trị đạo đức phổ quát mà nhân loại cùng công nhận. Một dân tộc đã có thể đi từ nhà nước tự nhiên đến văn minh làng xã qua triết lý Cái Đình - là biểu tượng cho sự khiêm tốn, đoàn kết, biết tha thứ trong yếu tính dân chủ để bầu lên những nhà lãnh đạo từ dân qua các nghị hội, như hội nghị Diên Hồng thật sự là ngày đoàn kết của dân tộc.
Thiện Nam suy nghĩ, như vậy chính yếu tố nào đã tạo nên dân tộc nầy “bất đảo ông”, các yếu tính xuất phát từ bên trong nhiều khi tưởng chừng như tan biến: nào tình làng nghĩa xóm, một xã hội làng tộc đượm tình người: biết kính Trời, yêu Người, thảo kính Cha Mẹ và giết người quả là điều thật kinh tởm hoàn toàn xa lạ với người Việt Nam... Nhưng nó quả là một thứ di truyền mang tính lặng, nó là trụ cột chống đỡ theo biến dịch của thời gian. 
Ở đây và bây giờ, vào một buổi sáng, xảy ra cuộc hội thảo về Hiến pháp Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tại trại giam Xuân Lộc miền Nam Việt Nam, các tù nhân đã đứng lên và yêu cầu sửa đổi Hiến pháp, yêu cầu tự do dân chủ, nhất là tự do tôn giáo, đa nguyên chính trị. Họ là những con người không có một tấc sắt trong tay, nhưng có trái tim sắt quả cảm. Tất cả đều bị kiên giam cùm kẹp sau đó. Họ là Quý Đại đức thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, cùng sự nhiệt tình ủng hộ của Quý Tu Sĩ thuộc Dòng Đồng Công, có cả sự hiện diện cổ võ của các Đảng viên cấp tiến cao cấp bị vào tù; còn một Linh mục học giả khả kính, Dòng Tên, trước đó, ngay tại trại giam Thung Lũng Tử Thần đã đòi mang tất cả các Tổng bí thư cộng sản ra xét xử vì tội chống nhân loại cùng kêu gọi mọi người biết kiềm chế bao dung, và nhiều tù nhân khẳng khái khác như có vị Bác sĩ từng được đề cử giải Nobel Hoà Bình đã chất vấn viên đứng đầu việc quản lý tù nhân cả nước: 
-Các anh đã dùng thuế của dân vào việc gì khi điều kiện giam giữ con người quá tồi tệ - rồi Bác sĩ chỉ tay vào mặt Tướng quân nầy và nói: -Chính các anh mới cần được cải tạo. 
Cả phòng giam lúc đó xôn xao lên cùng tán dương: -Hãy lượn đi cho nước nó trong.
 Quả thật, Họ là những con người không sợ chết và cái chết nếu có xảy ra, nó chỉ là sự khởi đầu. 
 
Chàng trở về, dù chưa thật về nơi vĩnh hằng, nhưng Thánh vịnh như trỗi lên trong tâm trí chàng: “Khi Chúa thương gọi con về lòng con hân hoan như trong một giấc mơ”.
Đúng thật là một giấc mơ khi ra khỏi các trại tập trung dưới chế độ cộng sản.
Chàng đi về trên cõi quê, chắc chắn là thế, vì nơi nào có Ba Mẹ chính đó là quê hương.
Và như trong mơ, Thiện Nam tiếp tục cầu nguyện: Lạy Con người tự thân Con người. Nguyện danh Con người tỏa sáng. Nước Con người trị đến: Ý Con người thể hiện như nguyên uỷ vốn Thiện. Xin cho Con người hằng ngày dùng đủ. Và tha thứ cho nhau như Con người đối xử với nhau cho ra Con người. Chớ làm cho nhau sa chước cám dỗ, nhưng cùng nhau cứu khổ, cứu nạn. Ước được như vậy.  
 
Hết phần một.






 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Biển Đỏ Việt Nam _ Phần cuối _ Mục Lục

Biển Đỏ Việt Nam _ Phần II